Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 27/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN E, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 35/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Hôm nay ngày 27/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện E xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 156/2018/TLST-HNGĐ ngày 05/9/2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/QĐXX-ST ngày 25/10/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị A - Sinh năm 1995

Địa chỉ: Thôn C, xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Cao Văn B - sinh năm 1990

Địa chỉ: Thôn C, xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị A, vắng mặt anh B không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện vụ án ly hôn ngày 14/8/2018 và bản tự khai nguyên đơn chị Bùi Thị A trình bày.

Về hôn nhân: Chị và anh Cao Văn B kết hôn với nhau năm 2013, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 05/6/2013.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh B ham chơi bời, không tu chí làm ăn, không chăm lo cho gia đình, từ đó tình cảm vợ chồng lạnh nhạt với nhau.

Từ tháng 07/2017 đến nay chị về bên ngoại sinh sống và anh chị cũng ly thân nhau, không ai quan tâm và có trách nhiệm đến ai.

Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng không có khả năng hàn gắn, nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện E giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cao Văn B.

Về con chung: Chị và anh B có 01 con chung là Cao Thị A F - Sinh ngày 28/10/2013. Khi chị và anh B ly hôn, chị đề nghị Tòa án giải quyết giao con cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và chị không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Cao Văn B: Tòa án tiến hành các thủ tục tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập cho anh B, thông báo cho anh B ngày giờ đến Tòa án để lấy lời khai, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án, hiện anh B đang có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại địa phương nhưng anh B không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập, nên Tòa án không lấy được lời khai của anh B, không hòa giải được vụ án và tại phiên tòa anh B cũng vắng mặt không có lý do.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 03/10/2018 đối với ông Cao F G - bố đẻ anh Cao Văn B trình bày: Anh Cao Văn B và chị Bùi Thị A tự nguyện kết hôn với nhau, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương vào năm 2013. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị về chung sống với gia đình nhà ông ở Thôn C, xã D, huyện E. Quá trình vợ chồng chung sống liên tục xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh B ham chơi bời, không tu chí làm ăn, không chăm lo cho gia đình, từ đó tình cảm vợ ca lạnh nhạt với nhau. Từ tháng 07/2017 đến nay chị A về bên ngoại sinh sống và anh chị cũng ly thân nhau, không ai quan tâm và có trách nhiệm đến ai. Nay chị A có đơn xin ly hôn anh B, quan điểm của gia đình: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung: Cháu Cao Thị A F - sinh ngày 28/10/2013. Gia đình đề nghị Tòa án căn cứ theo pháp luật để giải quyết. Về tài sản, công nợ chung: Gia đình không nắm được.

Tại biên bản thu thập chứng cứ tại nơi cư trú - Trưởng Thôn C, xã D cung cấp như sau: Anh Cao Văn B và chị Bùi Thị A tự nguyện kết hôn với nhau, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương vào năm 2013. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị về chung sống với gia đình nhà bố mẹ đẻ anh B ở Thôn C, xã D, huyện E. Quá trình vợ chồng chung sống anh chị không báo cáo với chính quyền địa phương, nên việc mâu thuẫn của vợ chồng như thế nào địa phương không nắm được. Đến tháng 07/2017 đến nay chị A đi khỏi địa phương và không thấy quay về địa phương, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Nay chị A có đơn xin ly hôn, quan điểm của địa phương: Đề nghị căn cứ theo pháp luật giải quyết. Về con chung: Anh chị có 01 con chung. Nếu trường hợp anh chị phải ly hôn, thì đề nghị Tòa án căn cứ vào thực tế để quyết định giao con cho ai nuôi đảm bảo được điều kiện về học tập, sinh hoạt của cháu. Về tài sản, công nợ chung: Địa phương không nắm được.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Tất cả các giai đoạn từ khi thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTDS năm 2015. Các đương sự thực hiện theo đúng quyền và nghĩa vụ quy định của BLTTDS năm 2015. Đề nghị HĐXX xem xét, đánh giá chứng cứ trên cơ sở quy định của pháp luật để đưa ra quyết định đúng đắn, chính xác, khách quan nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về hôn nhân: Xử cho chị A và anh B được ly hôn.

- Về con chung: Giao cháu Cao Thị A F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về án phí: Chị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay chị A vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay anh B đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vắng mặt không có lý do, nên căn cứ khoản 2 điều 227 BLTTDS năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn anh Cao Văn B.

[2] Về hôn nhân: Chị Bùi Thị A và anh Cao Văn B kết hôn với nhau từ năm 2013, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Chị A cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do vợ chồng không hợp tính nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, vợ chồng sống ly thân nhau từ tháng 07/2017, không ai quan tâm và có trách nhiệm đến ai. Đối với anh B, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần và tại phiên tòa hôm nay anh B vẫn vắng mặt không có lý do, điều này thể hiện anh B có thái độ bỏ mặc và không có thiện chí đoàn tụ cùng chị A. Nay chị A yêu cầu được ly hôn anh B.

Xét tình cảm của anh chị thực tế không còn, mâu thuẫn không có khả năng hàn gắn được, điều này chứng tỏ mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận đơn khởi kiện của chị Bùi Thị A. Xử cho chị Bùi Thị A được ly hôn với anh Cao Văn B là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Anh B, chị A có 01 con chung: Cháu Cao Thị A F- sinh ngày 28/10/2013. Tại phiên tòa, chị A có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu F và không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị; Hiện nay cháu F đang ở cùng với chị A tại gia đình nhà Ngoại; ngoài ra do anh B thường xuyên vắng mặt tại gia đình, nên việc giao con cho anh B không đảm bảo được điều kiện về mọi mặt của cháu. Như vậy việc giao cháu F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là phù hợp với thực tế và đảm bảo được điều kiện về mọi mặt của cháu. Sau này anh B có nguyện vọng nuôi con thì anh sẽ yêu cầu bằng một vụ kiện dân sự khác.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị A được ly hôn với anh Cao Văn B.

2. Về con chung: Anh B, chị A có 01 con chung: Cháu Cao Thị A F- sinh ngày 28/10/2013. Giao cháu F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh B có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị Bùi Thị A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0002049 ngày 05/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện E, Chị A đã nộp đủ tiền án phí DSST.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Chị A có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh B vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 27/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:35/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về