Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 04/07/2018 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN - TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 35/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 04 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2018; về tranh chấp: “xin ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2018/QĐXX-ST ngày 01 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Xuân M, sinh năm 1980. HKTT: ấp Q, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Tạm trú: ấp M, xã B, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1976. Địa chỉ: ấp Q, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).

3. Con trên 07 tuổi:

3.1 Cháu Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 03/10/2000 (vắng mặt).

3.2 Cháu Nguyễn Trường P, sinh ngày 09/10/2009 (vắng mặt).

HKTT: ấp Q, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/3/2018 nguyên đơn chị Nguyễn Thị Xuân M trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn C thành hôn vào năm 1998, hôn nhân do tự tìm hiểu quen biết nhau trước, sau đó được sự chấp thuận của gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Đăng ký kết hôn ngày 13/02/2008 tại UBND xã Tân Bình, huyện Bình Minh nay là huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Sau khi cưới vợ chồng sống chung với cha mẹ chồng ở ấp Q, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long hạnh phúc được khoảng 01 năm; có 03 con chung Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 03/10/2000, Nguyễn Trường P, sinh ngày 09/10/2009 và Nguyễn Phước T, sinh ngày 13/4/2012 hiện chị chăm sóc nuôi dưỡng. Trong thời gian chung sống vợ chồng chị không tạo lập được tài sản chung nào khác; vợ chồng không thiếu nợ ai. Mâu thuẫn phát sinh dẫn đến ly hôn là do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống. Anh C không có trách nhiệm, không quan tâm chăm sóc gia đình, không lo làm ăn, chỉ cờ bạc, rượu chè. Ngoài ra anh C còn có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác bên ngoài, nhiều lần không tôn trọng chị, thậm chí có đôi lần còn dùng vũ lực đánh đập chị. Chị đã khuyên bảo nhiều lần để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được, từ đó đời sống vợ chồng không hạnh phúc và ly thân từ khoảng tháng 12/2017 đến nay; hiện mỗi người đều có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn C. Về con chung: Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 03/10/2000, Nguyễn Trường P, sinh ngày 09/10/2009 và Nguyễn Phước T, sinh ngày 13/4/2012 chị yêu cầu được trực tiếp nuôi ba con, chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Về quan hệ tài sản: không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị không còn yêu cầu nào khác.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/5/2018 cháu Nguyễn Thị Yến N trình bày: cha cháu là Nguyễn Văn C, mẹ là Nguyễn Thị Xuân M. Cha mẹ cháu ly hôn, nguyện vọng của cháu muốn được sống với mẹ. Do cháu đi làm, cháu xin vắng mặt tại phiên tòa.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/5/2018 cháu Nguyễn Trường P trình bày: cha cháu là Nguyễn Văn C, mẹ là Nguyễn Thị Xuân M. Cha mẹ cháu ly hôn, nguyện vọng của cháu muốn được sống với mẹ. Cháu xin vắng mặt tại phiên tòa

Tại phiên tòa: Chị M trình bày vàng cưới có 01 đôi bông tai 01 chỉ vàng 24K và 01 dây chuyền 02 chỉ vàng 18K, anh C đã bán tiêu xài hết, hiện nay không còn. Chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh C; chị yêu cầu được trực tiếp nuôi Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 03/10/2000, Nguyễn Trường P, sinh ngày 09/10/2009 và Nguyễn Phước T, sinh ngày 13/4/2012, chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con; về quan hệ tài sản: tự thỏa thuận, không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị không còn yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn và nuôi con, bị đơn có nơi cư trú ở huyện Bình Tân nên tranh chấp và quan hệ pháp luật thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án huyện Bình Tân theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng triệu tập bị đơn anh Nguyễn Văn C tham gia phiên tòa giải quyết vụ án nhưng anh C vẫn vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh C.

[3] Bị đơn anh Nguyễn Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ án, không trình bày ý kiến, không đưa ra được chứng cứ chứng minh nên anh C đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình. Anh C phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Xuân M và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án làm chứng cứ để xem xét giải quyết vụ án.

[4] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Xuân M và anh Nguyễn Văn C có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình nên hôn nhân giữa chị M và anh C là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận

[5] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Xuân M là có cơ sở. Bởi lẽ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị M và anh C là trầm trọng, không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; chị M xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh C, chị yêu cầu được ly hôn anh C. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Xuân M được ly hôn anh Nguyễn Văn C là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về con chung:

[6.1] Chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 03/10/2000, Nguyễn Trường P, sinh ngày 09/10/2009 và Nguyễn Phước T, sinh ngày 13/4/2012; cháu N và P có nguyện vọng sống với mẹ. Xét thấy từ khi chị M và anh C không còn sống chung với nhau, chị M là người trực tiếp nuôi cả ba con, hiện chị M đang làm nghề phụ hồ lương bình quân 6.000.000 đồng/tháng, cuộc sống của các con vẫn được đảm bảo. Do đó Hội đồng xét xử xem xét giao các cháu N, P và T cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng.

[6.2] Theo quy định của pháp luật thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Tuy nhiên chị M không yêu cầu anh C cấp dưỡng cho con. Do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về chia tài sản: chị Nguyễn Thị Xuân M và anh Nguyễn Văn C không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[8] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Xuân M phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 9, 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 91, 147, 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Xuân M và anh Nguyễn Văn C.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung Nguyễn Thị Yến N, sinh ngày 03/10/2000, Nguyễn Trường P, sinh ngày 09/10/2009 và Nguyễn Phước T, sinh ngày 13/4/2012 cho chị Nguyễn Thị Xuân M trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: chị M không yêu cầu anh C cấp dưỡng cho con là Nguyễn Thị Yến N, Nguyễn Trường P và Nguyễn Phước T. Do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Văn C có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con là Nguyễn Thị Yến N và Nguyễn Trường P được sống chung với chị Nguyễn Thị Xuân M.

Anh Nguyễn Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình; đồng thời người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về chia tài sản: chị Nguyễn Thị Xuân M và anh Nguyễn Văn C không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Xuân M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) do chị M nộp theo biên lai thu số 0012069 ngày 12/3/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Tân. Vậy chị M đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 04/07/2018 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con

Số hiệu:35/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về