Bản án 35/2017/HSST ngày 20/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 35/2017/HSST NGÀY 20/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 20/11/2017, tại Phòng xử án A - Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2017/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Bảo Q. Sinh năm: 1990, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn G, xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk;

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe;

Con ông: Trần Văn D, sinh năm 1943; Con bà: Đinh Thị Xuân T, sinh năm 1956;

Vợ là: Ngô Thị P, sinh năm 1999 và có 01 con, sinh ngày 20/9/2017.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).

* Người bị hại: Anh Đỗ Văn N; sinh ngày: 05/5/2000 (đã chết)

Người đại diện theo y quyền c a gia đình bị hại: Bà Nguyễn Thị C; sinh năm: 1977.

Trú tại: Thôn 06, xã K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người làm chứng:

Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm: 1978.

Trú tại: Thôn G, xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Trần Bảo Q bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 08/6/2017, Trần Bảo Q (có giấy phép lái xe ô tô hạng C) điều khiển xe ô tô tải biển số A2, theo hướng từ thành phố B về huyện L. Lúc này trên xe bên ghế phụ có chị Nguyễn Thị Kim H đi cùng. Khi đi đến gần Km 10+200 Quốc lộ 27 thì phát hiện phía trước ngược chiều cách khoảng 200 mét có xe mô tô biển số A1 do Đỗ Văn N điều khiển đang lưu thông theo chiều ngược lại, đi lấn sang phần đường mà Q đang lưu thông. Thấy vậy, Q bấm còi đồng thời điều khiển xe ô tô đi sát lề đường bên phải theo hướng đi để tránh. Tuy nhiên, lúc này thấy N vẫn điều khiển xe mô tô chuyển hướng đi sang phần đường mà Q đang lưu thông nên Q đã điều khiển xe lấn sang phần đường giành cho phương tiện lưu thông ngược chiều; N cũng điều khiển xe đi về phần đường bên phải theo hướng lưu thông c a N, lúc này do khoảng cách quá gần Q xử lý không kịp nên xe ô tô do Q điều khiển đã tông vào xe mô tô do N điều khiển. Hậu quả làm Đỗ Văn N bị thương nặng và tử vong tại Bệnh viện C, thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10 tháng 6 năm 2017.

Tại Bản kết luận Pháp y tử thi số 313/PY-T.Th ngày 13/7/2017 c a Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận nguyên nhân tử vong c a Đỗ Văn N, là: “Hôn mê, suy hô hấp không hồi phục do đa thương, vỡ sọ, dập não nặng/TNGT”.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 08/6/2017 thể hiện: Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông là trên mặt đường thuộc Km 10+200, Quốc lộ 27 thuộc địa phận thôn 8, xã E, huyện C. Tại vị trí xảy ra tai nạn đoạn đường thẳng, tương đối bằng được trải nhựa bê tông, có bề rộng là 07m60, ở giữa đường có vạch sơn trắng đứt quãng phân chia làn đường xe chạy. Đoạn đường có tầm nhìn thoáng không bị che khuất, có hệ thống đèn điện đường chiếu sáng, hai bên đường là lề đường đất.

Lấy điểm mốc là cột trụ điện số 473 KNA/11 nằm bên trái đường theo hướng từ thành phố B đến huyện L, đồng thời chọn mép đường nhựa nằm bên phải theo hướng thành phố B đến huyện L làm chuẩn cho các số đo. Vị trí vùng va chạm ban đầu giữa hai phương tiện trên và ký hiệu trong sơ đồ hiện trường là số 8, từ tâm c a vị trí vùng va chạm ban đầu đo vào mép đường chuẩn dài 05m20, từ tâm c a vùng va chạm ban đầu đo đến điểm mốc dài 25m40, đồng thời đo đến tâm trục sau bên phải c a xe mô tô biển số A1 dài 06m95; khoảng cách giữa tâm c a vùng va chạm ban đầu tới tâm c a dấu vết mảnh vỡ ký hiệu số 05 (trong sơ đồ hiện trường) là 0,75m.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã tạm giữ các vật chứng c a vụ án, gồm: Một xe ô tô biển số A2 và một xe mô tô biển số A1 để phục vụ công tác điều tra. Ngoài ra Cơ quan điều tra còn tạm giữ 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng C mang tên Trần Bảo Q, do Sở Giao thông vận tải tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 21/10/2016.

Sau khi phạm tội, bị cáo và đại diện gia đình người bị hại đã thỏa thuận bồi thường số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng). Hiện nay đại diện của người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và đã làm đơn bãi nại.

Quá trình điều tra, bị cáo Trần Bảo Q đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số: 35/CT-VKS-HS ngày 25 tháng 10 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin truy tố bị cáo Trần Bảo Q về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Bảo Q khai: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 08/6/2017, bị cáo điều khiển xe ô tô tải biển số A2, theo hướng từ thành phố B đến huyện L trên Quốc lộ 27 đi với vận tốc 40-50km/h mặc dù phát hiện xe mô tô biển số A1 do Đỗ Văn N điều khiển đi ngược chiều lấn sang phần đường c a xe ô tô do bị cáo điều khiển, bị cáo đã bấm còi báo hiệu và chuyển hướng xe về bên phải theo hướng đi thì bị hại tiếp tục đi thẳng và lấn sang phần đường đi của bị cáo nên bị cáo đã điều khiển xe chuyển hướng về bên trái lấn sang đường chiều ngược lại, khi đó bị hại cũng chuyển hướng đi về phía bên phải theo hướng đi. Do khoảng cách quá gần nên xe bị cáo đã va chạm với xe mô tô, hậu quả làm Đỗ Văn N bị thương nặng sau đó tử vong.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo Cáo trạng số: 35/CT-VKS-HS ngày 25 tháng 10 năm 2017 c a Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua phân tích, đánh giá tính chất, mức độ do hành vi phạm tội c a bị cáo gây ra, đồng thời đề cập các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đề nghị: Căn cứ Điều 202 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Trần Bảo Q phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 BLHS.

Đề nghị xử phạt đối với bị cáo Trần Bảo Q mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

* Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã trả lại chiếc xe ô tô biển số A2 cho Trần Bảo Q và trả chiếc xe mô tô biển số A1 cho bà Nguyễn Thị C, là các ch sở hữu.
 
Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe cơ giới hạng C mang tên Trần Bảo Q do Sở Giao thông vận tải tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 21/10/2016.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 591 Bộ luật dân sự 2015: Chấp nhận việc bị cáo Trần Bảo Q đã bồi thường cho người đại diện của gia đình bị hại số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng), hiện nay người đại diện c a gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng trên cơ sở xem xét toàn diện và đầy đủ chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai c a bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 08/6/2017, Trần Bảo Q (có giấy phép lái xe hạng C theo quy định) điều khiển xe ô tô biển số A2 đi từ hướng thành phố B đến huyện L, tỉnh Đắk Lắk trên Quốc lộ 27. Khi đi đến đoạn đường Km 10+200 thuộc địa phận thôn 8, xã E, huyện C do đi không đúng phần đường quy định nên đã tông vào xe mô tô biển số A1 do Đỗ Văn N điều khiển đi theo chiều ngược lại. Hậu quả làm Đỗ Văn N bị thương nặng và tử vong tại Bệnh viện C, thành phố Hồ Chí Minh ngày 10 tháng 6 năm 2017.

Hành vi c a bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin truy tố về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 BLHS là có căn cứ pháp luật.

Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.”

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội c a bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm các quy tắc an toàn giao thông như điều khiển phương tiện không giữ khoảng cách an toàn, không đi đúng làn đường quy định tại khoản 11 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ, làm thiệt hại tính mạng c a Đỗ Văn N, đồng thời tác động xấu đến trật tự an toàn giao thông tại địa phương nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm tương ứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội c a bị cáo gây ra để cải tạo, giáo dục riêng đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong đời sống xã hội về loại tội phạm này.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã khai báo thành khẩn, tích cực bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, được đại diện gia đình bị hại làm đơn xin bãi nại cũng như xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình, bố mẹ bị bệnh hiểm nghèo… được bệnh viện và chính quyền địa phương xã H xác nhận nên được xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS.

Ngoài ra trong vụ án này, cũng cần xem xét một phần lỗi c a người bị hại điều khiển phương tiện giao thông trong khi không đ điều kiện tham gia giao thông, không đi đúng phần đường quy định dẫn đến tai nạn hậu quả làm bị hại chết.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS; có nhân thân tốt, là trụ cột chính trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, vợ mới sinh con nhỏ 02 tháng, bố mẹ bị bệnh hiểm nghèo, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và sự phối hợp c a gia đình cũng đ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa đảm bảo tính nghiêm minh c a pháp luật vừa thể hiện tính khoan hồng nhân đạo c a Nhà nước ta.

Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nên cần chấp nhận.

* Về hình phạt bổ sung: Xét hành vi của bị cáo như đã nêu trên cần thiết áp dụng Điều 36, khoản 5 Điều 202 BLHS để cấm bị cáo hành nghề lái xe ô tô trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

* Về vật chứng của vụ án:

Xét việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã trả lại xe ô tô biển số A2 cho bị cáo và xe mô tô biển số A1 cho bà Nguyễn Thị C là các ch sở hữu là phù hợp, cần chấp nhận.

Tiếp tục tạm giữ 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C số 660118811095 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 21/10/2016 mang tên Trần Bảo Q đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt bổ sung (hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án).

* Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Bảo Q đã thỏa thuận và thực hiện bồi thường xong cho đại diện gia đình người bị hại số tiền 70.000.000 đồng gồm: chi phí điều trị 10.150.000 đồng (có hóa đơn), chi chi phí mai táng 15.000.000 đồng, tổn thất về tinh thần là 35.000.000 đồng, thuê xe đi từ Đắk Lắk đến Bệnh viện C và ngược lại là 10.000.000 đồng. Xét một số khoản không có hóa đơn, chứng từ nhưng đây là chi phí hợp lý, thực tế và hiện nay đại diện gia đình người bị hại là bà Nguyễn Thị C không yêu cầu bồi thường gì thêm nên ghi nhận sự thỏa thuận trên.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Bảo Q phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 BLHS.

Xử phạt bị cáo Trần Bảo Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Bảo Q cho UBND xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo Trần Bảo Q thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

* Về hình phạt bổ sung: Áp dụng Điều 36, khoản 5 Điều 202 BLHS.

Cấm bị cáo Trần Bảo Q hành nghề lái xe ô tô 01 (một) năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

* Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin đã trả lại xe ô tô biển số A2 cho bị cáo và xe mô tô biển số A1 cho bà Nguyễn Thị C, là các ch sở hữu nhận sử dụng.

Tiếp tục tạm giữ 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C số 660118811095 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 21/10/2016 mang tên Trần Bảo Q đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt bổ sung (hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án).

* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; các điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật dân sự 2015.

Chấp nhận việc bị cáo Trần Bảo Q đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong cho đại diện gia đình người bị hại số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng). Đại diện gia đình bị hại xác định không còn yêu cầu nào khác về trách nhiệm dân sự trong vụ án nên công nhận sự thỏa thuận nêu trên.
 
* Về án phí HSST: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Bảo Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ khi tuyên án. Người đại diện theo  ủy quyền của gia đình bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2017/HSST ngày 20/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:35/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về