Bản án 239/2017/HSST ngày 14/07/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 239/2017/HSST NGÀY 14/07/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Mở phiên tòa công khai ngày 14-7-2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 230/2017/HSST, ngày 16-6-2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Đ , sinh năm 1997.

ĐKHKTT: Xóm 1, Thôn T N, xã P P, huyện L N, tỉnh H N.

Nghề nghiệp: Tự do. Văn hóa: 7/12.

Con ông: Trần Văn S, sinh năm 1972.

Con bà: Trần Thị H, sinh năm 1970.

Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 2. Chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16-4-2017 sau đó chuyển tạm giam đến ngày 31-5-2017 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

* Bị hại: bà Lâm Thị A, sinh năm 1966 (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của bị hại: ông Trần Xuân H, sinh năm 1962

Nơi cư trú: Xóm 2, thôn V K, xã N Đ, huyện N T, tỉnh Nam Định.

(bị cáo có mặt tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Trần Văn T và anh Trần Văn T1 cùng chung sở hữu chiếc xe ô tô tải loại 3,5 tấn, BKS: 90C - 031.89 để vận chuyển mặt hàng cá, hải sản. Anh T và anh T1 thuê anh Ngô Hoài N (có giấy phép lái xe hạng D) làm lái xe và thuê anh Trần Văn D và Trần Văn Đ làm phụ xe với nhiệm vụ theo xe bốc dỡ hàng. Bản thân Đ mặc dù không có giấy phép lái xe ô tô tải nhưng Đ vẫn thường nói với mọi người là có giấy phép lái xe. Khoảng 09h sáng ngày 15-4-2017 anh T yêu cầu N lái xe ô tô tải BKS: 90C - 031.89 đi xuống phà Xa Cao, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định để lấy hàng. Sau đó anh T cũng gọi điện bảo Đ và D xuống nhà anh T đi cùng với N để phụ xe. Khoảng 10h cùng ngày N điều khiển xe chở Đ và D đi lấy đá ướp lạnh ở gần nhà anh T. Sau khi lấy đá xong, Đ tự lên xe ô tô BKS: 90C - 031.89 khởi động máy sau đó gọi N và D lên xe ngồi ghế phụ. Đ điều khiển xe ô tô đi xuống huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định để lấy cá sau khi lấy được 02 tạ cá Đoàn tiếp tục điều khiển xe ô tô BKS: 90C - 031.89 để đi về Lý Nhân. Đến khoảng 14h30’ cùng ngày Đ điều khiển xe từ quốc lộ 21B rẽ theo đường dẫn lên cầu Tân Phong. Đường dẫn lên cầu Tân Phong tại đoạn này là đường hai chiều trải nhựa phẳng, giữa có dải phân cách cứng rộng 3m, tầm nhìn không bị che khuất, mỗi chiều đường rộng 9,6m. Đoàn cho xe chạy trên phần đường bên phải theo hướng đi, cách mép đường bên phải khoảng 2,5m và cho xe chạy với tốc độ khoảng 60km/h. Khi đi đến ngã tư đường dẫn lên cầu Tân Phong và đường trục xã Nam Phong, do thiếu chú ý quan sát và không giảm tốc độ khi đưa xe vào đường giao nhau, Đ không phát hiện được bà Lâm Thị A điều khiển xe môtô cup 50 BKS: 18KA - 1614 đi trên đường trục xã Nam Phong hướng từ UBND xã Nam Phong về Nam Điền, bà Anh điều khiển xe mô tô vào ngã tư trước và đã đi qua tâm ngã tư. Lúc này Đ mới phát hiện được liền phanh xe và đánh lái sang phải để tránh, nhưng do xe của Đ đang đi ở tốc độ cao và hai xe ở khoảng cách quá gần (khoảng 2m) nên phần chắn đà phía trước bên trái xe ôtô BKS: 90C - 031.89 do Đ điều khiển đã tông thẳng vào phần hông xe bên phải xe máy BKS: 18KA - 1614 do bà Lâm Thị A điều khiển, hất bà A bắn ra khỏi xe ngã xuống vệ đường và đẩy rê xe máy đi tiếp khoảng 17m, hất xe máy xuống vệ đường, xe ô tô của Đoàn điều khiển cũng lao xuống ruộng, đổ lật ngả phải nằm sát vệ đường. Đ, D và Nchỉ bị xây sát nhẹ, bà Lâm Thị A bị chấn thương sọ não, được đưa đến bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Nam Định cấp cứu nhưng do thương tích nặng, bà A đã tử vong trên đường đi cấp cứu. Trần Văn Đ đến Cơ quan CSĐT - Công an TP Nam Định đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi như trên.

Ngay sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan CSĐT – Công an TP Nam Định đã thành lập Hội đồng khám nghiệm tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi theo luật định.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 311/GĐKTHS ngày 20/4/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Nguyên nhân tử vong của bà Lâm Thị A là do: Chấn thương vỡ nứt xương hộp sọ vùng thái dương phải, chảy máu nội sọ.

Cáo trạng số 229/QĐ-KSĐT ngày 15-6-20167, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Trần Văn Đ về tội: “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo ăn năn hối cải và xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Trần Văn Đ và anh Trần Văn T1, anh Trần Văn T đã thỏa thuận với ông Trần Xuân H (là chồng của bà Lâm Thị A) để tham gia khắc phục hậu quả, bồi thường số tiền 160.000.000đ (một trăm sáu mươi triệu đồng). Ông H đã nhận đủ số tiền trên và đề nghị cơ quan pháp luật xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 BLHS.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ như: sơ đồ vụ tai nạn giao thông, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận giám định cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 14h30’ ngày 15-4-2017 Trần Văn Đ (không cã giÊy phÐp l¸i xe theo quy định) nhưng vẫn điều khiển xe ô tô BKS 90C - 031.89, ®i trên đường dẫn lên cầu Tân Phong, khi đến ngã tư đường dẫn lên cầu Tân Phong và đường trục xã Nam Phong, thành phố Nam Định, Trần Văn Đ đã thiếu chú ý quan sát và không giảm tốc độ khi đưa xe vào đường giao nhau, vi phạm luật giao thông đường bộ gây tai nạn làm bà Lâm Thị A bị chấn thương vỡ nứt xương hộp sọ dẫn đến tử vong. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội: “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được việc điều khiển xe ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, tham gia giao thông là phải có giấy phép lái xe, chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ nhưng chỉ vì coi thường pháp luật bị cáo đã gây tan nạn làm bà Lâm Thị A tử vong.

Về tình tiết giảm nhẹ: trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi sự việc xảy ra gia đình bị cáo khắc phục hậu quả cho người bị hại, đại diện người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, bị cáo là người có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, HĐXX áp dụng điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị của viện kiểm sát, HĐXX quyết định áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục để bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Trần Văn Đ và anh Trần Văn T1, anh Trần Văn T đã thỏa thuận với ông Trần Xuân H (là chồng của bà Lâm Thị A) để tham gia khắc phục hậu quả, bồi thường số tiền 160.000.000đ (một trăm sáu mươi triệu đồng). Ông H đã nhận tiền và không đề nghị gì khác, HĐXX không xem xét giải quyết.

Vật chứng của vụ án là xe ô tô BKS: 90C - 031.89 thuộc quyền sở hữu của anh Trần Văn T1, anh Trần Văn T Cơ quan CSĐT – Công an TP Nam Định đã trả lại cho anh T1, anh T. Chiếc xe máy BKS: 18KA - 1614 thuộc quyền sở hữu của ông Trần Xuân H, Cơ quan CSĐT – Công an TP Nam Định đã trả lại cho ông H. Ông H đã nhận lại và không có ý kiến thắc mắc gì.

Án phí HSST: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị cáo được trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 16-4-2017 đến ngày 31-5-2017.

Giao bị cáo cho UBND xã P P , huyện L N, tỉnh H N giám sát, giáo dục. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

419
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 239/2017/HSST ngày 14/07/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:239/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về