Bản án 35/2017/DS-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 35/2017/DS-ST NGÀY 18/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 78/2017/TLST- DS, ngày 27 tháng 7 năm 2017; về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2017/QĐXX-ST, ngày 01 tháng 9 năm 2017; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm: 1976

Cư ngụ: Tổ 9, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.

- Bị đơn: Chị Hồ Ngân B, sinh năm: 1983

Cư ngụ: Tổ 5, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị X có mặt, bị đơn chị Hồ Ngân B vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị X trình bày:

Vào ngày 12/8/2014, chị Nguyễn Thị X có cho chị Hồ Thị B vay số tiền 67.000.000đ. Đến ngày 21/12/2014 chị B vay tiếp của chị X số tiền 6.000.000đ. Tổng số tiền chị X cho chị B vay là 73.000.000đ ( bảy mươi ba triệu đồng ). Hạn trả nợ vào năm 2015, khi vay có anh Lê Quảng M làm chứng nhưng đến hạn trả tiền chị X yêu cầu chị B trả tiền nhiều lần nhưng không được. Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị X yêu cầu chị Hồ Ngân B trả lại số tiền đã vay 73.000.000đ ( bảy mươi ba triệu đồng ) năm 2014 và không yêu cầu chị B trả lãi.

Đối với bị đơn chị Hồ Ngân B:

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án số: 78/TB- TLVA, ngày 27/7/2017, giấy triệu tập đến Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản để giải quyết vụ án nhưng chị B đều không có ý kiến bằng văn bản gửi Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, cũng không có yêu cầu phản tố. Ngày 18/8/2017, Tòa án nhân dân Hớn Quản tiến hành xác minh và lấy lời khai trực tiếp tại nhà chị B thì chị B trình bày: thừa nhận có vay 02 lần tiền vào ngày 12/8/2014 chị B có vay của chị X số tiền 67.000.000đ, ngày 21/12/2014 chị B vay tiếp của chị X số tiền 6.000.000đ. Tổng số tiền chị B nợ chị X là 73.000.000đ ( bảy mươi ba triệu đồng ). Trước yêu cầu của chị X thì chị B cũng đồng ý trả nợ nhưng sẽ gặp chị X thỏa thuận phương thức thời gian trả tiền. Tuy nhiên Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 92A/TB-TA, ngày 18/8/2017 nhưng chị B không tham gia mà có đơn xin yêu cầu hòa giải và xét xử vắng mặt đề ngày 18/8/2017; Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ thông báo kết quả phiên họp ngày 24/8/2017 cho chị B nhưng chị B cũng không có ý kiến.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản phát biếu ý kiến như sau: - Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử. - Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để buộc chị Hồ Ngân B trả số tiền 73.000.000đ (bảy mươi ba triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng, quan hệ pháp luật: Bị đơn chị Hồ Ngân B có nơi cư trú tại huyện Hớn Quản; chị X có đơn yêu cầu chị B trả số tiền 73.000.000đ ( bảy mươi ba triệu đồng ) đã vay nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa chị Hồ Ngân B vắng mặt có lý do. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị B. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ thủ tục phiên tòa cho chị B theo đúng quy định của pháp luật nhưng bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử trong trường hợp vắng mặt bị đơn tại phiên tòa là phù hợp.

[2] Về nội dung vụ án: Vào ngày 12/8/2014, chị Nguyễn Thị X có cho chị Hồ Thị B vay số tiền 67.000.000đ. Đến ngày 21/12/2014 chị B vay tiếp của chị X số tiền 6.000.000đ. Tổng số tiền chị X cho chị B vay là 73.000.000đ ( bảy mươi ba triệu đồng). Qúa trình làm việc cũng như tại phiên tòa chị X đều yêu cầu chị B phải trả số tiền vay 73.000.000đ (bảy mươi ba triệu đồng), không yêu cầu tính lãi. Chị B không có mặt tại phiên tòa nhưng trong biên bản lấy lời khai ngày 18/8/2017 thì chị B cũng thừa nhận nội dụng như đơn khởi kiện của chị X. Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định quan hệ tranh chấp liên quan đến số tiền trên là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc trường hợp vay có kỳ hạn và không có lãi được quy định Điều 463 và khoản 1 Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015 nên yêu cầu của chị Nguyễn Thị X được chấp nhận và buộc chị Hồ Ngân B trả cho chị X số tiền 73.000.000đ ( bảy mươi ba triệu đồng ) đã vay ngày 12/8/2014 và ngày 21/12/2014.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của chị Nguyễn Thị X được chấp nhận nên cần buộc chị Hồ Ngân B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch và hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho chị Nguyễn Thị X là phù hợp với quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91; khoản 3 Điều 144; Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 357; Điều 463, 466; khoản 1 Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015

- Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 26 Luật Thị hành án dân sự năm 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “ Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của chị Nguyễn Thị X.

1. Buộc chị Hồ Ngân B trả số tiền đã vay 73.000.000đ ( bảy mươi ba triệu đồng ) ngày 12/8/2014 và ngày 21/12/2014 cho chị Nguyễn Thị X.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2.Về án phí: chị Hồ Ngân B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 3.650.000đ ( ba triệu sáu tram năm mươi ngàn đồng ).

Hoàn trả án phí cho chị Nguyễn Thị X số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.825.000đ theo biên lai số 0012254 ngày 27/7/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.

3.Về quyền kháng cáo: chị Nguyễn Thị X có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; chị Hồ Ngân B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2017/DS-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:35/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về