Bản án 351/2019/HS-PT ngày 24/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 351/2019/HS-PT NGÀY 24/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2019 tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 146/2019/TLPT-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo Lê Hữu V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2019/HS-ST ngày 23 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Hữu V, sinh năm 1982, tại huyện A1, tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú hiện tại: Ấp 7 Xáng, xã A2, huyện A1, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn N (chết) và bà Trần Thị L; vợ tên: Hà Thị Ngọc Y (đã ly hôn); con ruột: 02 người – sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/7/2018 cho đến nay (có mặt) Ngoài ra còn có 07 (bảy) bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

* Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Vào khoảng 14 giờ 45 phút ngày 16/7/2018, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Kiên Giang phối hợp với Công an phường R bắt quả tang Nguyễn Phước BC1 đang bán trái phép 02 bịch ma túy, giá 800.000 đồng cho Lê Minh BC2 tại phòng số 04 nhà trọ Tuyết Mai, số 182 Mai Thị Hồng BC3, khu phố 3, phường R, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Đến vào khoảng 16 giờ 00 ngày 16/7/2018, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Kiên Giang phối hợp với Công an thị trấn B1, huyện B2 bắt quả tang Phan Văn BC3 đang bán trái phép 01 bịch ma túy, giá 900.000 đồng cho Trương Thị Phương L1 tại khu vực quán cà phê 258 thuộc khu phố 3, thị trấn B1, huyện B2, tỉnh Kiên Giang.

Tiếp đến vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 16/7/2018, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Kiên Giang phối hợp với Công an xã A2, huyện A1 bắt quả tang Lâm Văn Hữu BC6 đang tàng trữ trái phép ma túy, thu giữ 06 bịch ma túy tại phòng trọ số 04 nhà trọ Sao Đêm thuộc ấp 7 Xáng, xã A2, huyện A1, tỉnh Kiên Giang.

Sau khi bị tạm giữ, Nguyễn Phước BC1 khai nhận bán ma túy cùng với Huỳnh Kim BC5. Tại cơ quan điều tra, BC5 thừa nhận đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng với BC1.

Khi Phan Văn BC3 bị bắt quả tang về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Công an tiến hành khám xét nơi ở và ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Hữu V về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Đến khoảng 14 giờ 00 ngày 17/7/2018 Nguyễn Việt BC7 và khoảng 13 giờ 00 ngày 19/7/2018 Lâm Huy BC8 đến Công an thị trấn B1, huyện B2, tỉnh Kiên Giang đầu thú về hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng với V; Đến ngày 10/9/2018 mở rộng điều tra truy xét bắt tạm giam Trần Thạch BC4 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng với Lê Hữu V.

Trong quá trình điều tra, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội mua bán ma túy cho nhiều đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian từ tháng 7/2017 đến tháng 7/2018 tại huyện A1, B2 và thành phố G, tỉnh Kiên Giang, như sau:

1. Đối với Lê Hữu V:

Trong khoảng thời gian từ tháng 03/2018 đến tháng 05/2018, Lê Hữu V đưa tiền cho Trần Thạch BC4 mua ma túy 02 lần, số tiền 11.300.000 đồng. Nhưng khi mua ma túy về, BC4 không đưa ma túy cho V, mà BC4 trực tiếp bán cho các đối tượng nghiện và đưa V số tiền 2.700.000 đồng.

Từ tháng 4/2018 đến ngày 13/7/2018, V mua ma túy của những người sau:

Người có tên Thành (không rõ tên thật và địa chỉ) 01 lần, 01 bịch, giá 2.000.000 đồng ở ngã tư An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh; Người có tên E1 (không rõ tên thật và địa chỉ) 03 lần, 03 bịch, giá 2.700.000 đồng tại khu vực phường 8, thành phố Cà Mau và tại quán Karaoke E; Người đàn ông không rõ tên ở Thành phố Hồ Chí Minh 01 lần, 01 bịch, giá 11.500.000 đồng (lần này V đưa tiền cho BC6 và BC3 mua).

Nguồn ma túy trên, Lê Hữu V đem về nhà phân ra thành nhiều bịch nhỏ để sử dụng và bán lại cho người nghiện với hình thức là khi có người nghiện gọi điện thoại hỏi mua ma túy thì V trao đổi thống nhất giá cả, số lượng ma túy cần mua và địa điểm mua bán là tại quán Karaoke E, khu vực huyện B2, A1... hoặc V kêu Lâm Huy BC8, Nguyễn Việt BC7 và Phan Văn BC3 giao bán cho đối tượng nghiện; đồng thời V còn đưa ma túy cho Lâm Văn Hữu BC6 và Phan Văn BC3 giữ và tự liên hệ bán cho người nghiện, sau đó BC8, BC7, BC3 và BC6 đưa tiền lại cho V và được V cho hưởng lợi ma túy sử dụng, cụ thể:

- Lê Hữu V trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng sau: Ngô Trường S 02 lần, 02 bịch, giá 700.000 đồng; Nguyễn Thanh N1 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Trương Thanh Đ 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Danh Xa N 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Võ Thái D1 (Cống) 07 lần, 07 bịch với số tiền 3.700.000 đồng; Lâm Huy BC8 04 lần, 04 bịch, giá 2.200.000 đồng; Nguyễn Việt BC7 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Trần Hải D 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Trần Thạch BC4 03 lần 03 bịch với số tiền 2.400.000 đồng; Nguyễn Quốc G2 03 lần, 03 bịch, giá 1.500.000 đồng; Huỳnh Kim BC5 và Nguyễn Phước BC1 01 lần, 01 bịch, giá 1.100.000 đồng; Trương Thị Phương L1 01 lần, 01 bịch, giá 500.000 đồng.

- Lê Hữu V đưa ma túy cho Phan Văn BC3 giữ 3 lần, 15 bịch để bán cho người nghiện và BC3 đưa tiền cho V 4.400.000 đồng; V đưa ma túy cho Lâm Văn Hữu BC6 giữ 02 lần 05 bịch để bán cho các đối tượng nghiện và BC6 đưa cho V 2.200.000 đồng.

- Lê Hữu V giao ma túy cho Phan Văn BC3 bán cho Nguyễn Phước BC1 02 lần, 02 bịch, giá 1.200.000 đồng và Trương Thị Phương L1 01 lần, 01 bịch giá 900.000 vào ngày 16/7/2018 bị bắt quả tang.

- Lê Hữu V giao ma túy cho Nguyễn Việt BC7 bán cho các đối tượng nghiện sau: Trương Thanh Đ 01 lần, 01 bịch với số tiền 300.000 đồng; Danh Xa N 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Ngô Trường S 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Võ Thái D1 03 lần, 03 bịch, giá 1.100.000 đồng; Lâm Huy BC8 02 lần, 02 bịch, giá 800.000 đồng.

- Lê Hữu V giao ma túy cho Lâm Huy BC8 bán cho các đối tượng nghiện sau: Nguyễn Phước BC1 01 lần, 01 bịch, giá 800.000 đồng và giao Nguyễn Việt BC7 02 lần, 02 bịch giá 800.000 đồng.

Như vậy, Lê Hữu V đã mua ma túy 07 lần, 07 bịch với số tiền 27.700.000 đồng. Lê Hữu V trực tiếp bán ma túy cho 12 người, 26 lần, 26 bịch; Giao cho Phan Văn BC3 và Lâm Văn Hữu BC6 giữ để bán ma túy 05 lần, 20 bịch; Đưa ma túy cho Lâm Huy BC8, Nguyễn Việt BC7 và Phan Văn Văn giao bán 14 lần, 14 bịch. Trần Thạch BC4 bán ma túy đưa V số tiền là 2.700.000 đồng. Tổng cộng, Lê Hữu V đã thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy 45 lần, 60 bịch, thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội mà có của Lê Hữu V là 31.500.000 đồng.

2. Đối với Trần Thạch BC4:

Trong quá trình điều tra, Trần Thạch BC4 khai nhận: Từ tháng 3/2018 đến tháng 5/2018, BC4 kêu Lê Hữu V đưa tiền mua ma túy 02 lần là 11.300.000 đồng. BC4 đến khu vực cầu vượt An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh mua 02 lần. 02 bịch, giá 8.500.000 đồng của một người thanh niên không rõ lai lịch. Ngoài ra, BC4 còn mua ma túy của những người sau: Người có tên Mi (không rõ lai lịch) ở thành phố G3, An Giang 01 lần, 01 bịch, giá 4.200.000 đồng; Lê Hữu V 03 lần, 03 bịch, giá 2.400.000 đồng và Lâm Văn Hữu BC6 01 lần 01 bịch, giá 800.000 đồng tại quán Karaoke E (lần mua của BC6 chưa trả tiền).

Sau khi mua ma túy về, BC4 phân ra thành từng bịch nhỏ để sử dụng và bán lại cho những người nghiện để kiếm lời, với phương thức là khi có người đến mua trực tiếp hoặc gọi điện thoại cho BC4 trao đổi thống nhất về giá cả, số lượng ma túy cần mua và địa điểm mua bán, BC4 trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng sau: Võ Thái D1 (Cống) 13 lần, 13 bịch với số tiền 6.500.000 đồng; Ngô Trường S 06 lần, 06 bịch, giá 3.400.000 đồng; Nguyễn Văn T1 02 lần, 02 bịch, giá 600.000 đồng; người bạn của Minh 02 lần, 02 bịch, giá 6000.000 đồng; Lê BC8 Đô 02 lần, 02 bịch, giá 1.000.000 đồng; Nguyễn Thanh N1 02 lần, 02 bịch, giá 600.000 đồng; Trương Thanh Đ 02 lần, 02 bịch với số tiền 800.000 đồng; Lâm Huy BC8 02 lần, 02 bịch, giá 500.000 đồng; Huỳnh Kim BC5 02 lần, 02 bịch, giá 2.000.000 đồng; Trần Hải D 02 lần, 02 bịch, giá 600.000 đồng.

Như vậy, Trần Thạch BC4 đã mua ma túy 07 lần với số tiền 15.900.000 đồng. Trần Thạch BC4 trực tiếp thực hiện hành vi bán ma túy cho 10 người, 35 lần, 35 bịch, thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội mà có số tiền 16.600.000 đồng, BC4 đưa V số tiền bán ma túy là 2.700.000 đồng. Tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội mà có là 13.900.000 đồng.

3. Đối với Phan Văn BC3:

Trong quá trình điều tra Phan Văn BC3 khai: BC3 bán ma túy của V cho người nghiện từ tháng 6/2018 đến tháng 7/2018. Cụ thể, khi có người gọi điện thoại hỏi mua thì V trao đổi thống nhất giá cả, số lượng ma túy cần mua và địa điểm mua bán. Sau đó, V kêu BC3 trực tiếp đến điểm hẹn gặp người mua để lấy tiền và giao ma túy như đã thỏa thuận, BC3 bán ma túy tại quán Karaoke E và chợ B1, B2 cho những người sau: Lâm Huy BC8 02 lần, 02 bịch với số tiền 800.000 đồng; Danh Xa N 03 lần, 03 bịch, giá 1.300.000 đồng; Trần Hải D 03 lần, 03 bịch, giá 900.000 đồng; Nguyễn Thanh N1 02 lần, 02 bịch, giá 700.000 đồng; Võ Thái D1 (Cống) 03 lần, 03 bịch, giá 1.000.000 đồng.

Từ tháng 14/7/2018 đến ngày 16/7/2018, Phan Văn BC3 đã trực tiếp bán ma túy của BC6 giữ, để bán cho những người sau: Trần Hải D 02 lần, 02 bịch, giá 1.000.000 đồng; Lâm Huy BC8 02 lần, 02 bịch, giá 700.000 đồng; Danh Xa N 02 lần, 02 bịch, giá 1.000.000 đồng.

Ngoài ra, BC3 còn đi giao ma túy của V cho người mua 03 lần, cụ thể: Giao cho Nguyễn Phước BC1 tại quán Karaoke E 02 lần, 02 bịch, giá 1.200.000 đồng và giao cho Trương Thị Phương L1 01 lần, 01 bịch giá 900.000 vào ngày 16/7/2018 bị bắt quả tang.

Như vậy, Phan Văn BC3 đồng phạm giúp sức bán trái phép chất ma túy cho Lê Hữu V bán ma túy cho các đối tượng nghiện 22 lần, 22 bịch với tổng số tiền 9.200.000 đồng (Số tiền bán ma túy có được BC3 đưa V và BC6), BC3 được V cho hưởng lợi ma túy sử dụng.

4. Đối với Lâm Văn Hữu BC6:

Trong quá trình điều tra Lâm Văn Hữu BC6 khai: Vào ngày 13/7/2018, Lê Hữu V đưa 11.500.000 đồng để BC6 và BC3 lên Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của một người đàn ông (không rõ lai lịch). Sau đó, V đưa ma túy cho BC6 giữ 02 lần với 05 bịch ma túy để bán cho các đối tượng nghiện.

Từ 14/7/2018 đến ngày 16/7/2018, Lâm Văn Hữu BC6 đã trực tiếp bán ma túy của V cho những người sau: Lâm Huy BC8 03 lần, 03 bịch, giá 700.000 đồng (có 01 lần mua 800.000 đồng chưa trả tiền); Trần Hải D 05 lần, 05 bịch, giá 1.600.000 đồng (có 01 lần mua 400.000 đồng chưa trả tiền); Trần Thạch BC4 01 lần, 01 bịch, giá 800.000 đồng (chưa trả tiền); Phan Thị Thúy N3 01 lần, 01 bịch, giá 400.000 đồng (chưa trả tiền); Người có tên Nam 01 lần, 01 bịch, giá 2.000.000 đồng (thế chấp bằng điện thoại OPPO).

Như vậy, Lâm Văn Hữu BC6 đồng phạm giúp sức bán trái phép chất ma túy cho Lê Hữu V 06 lần, 06 bịch với số tiền 3.300.000 đồng, đưa cho V 2.200.000 đồng và hưởng lợi 1.100.000 đồng tiêu xài cá nhân.

5. Đối với Nguyễn Việt BC7:

Trong quá trình điều tra Nguyễn Việt BC7 khai: Vào khoảng tháng 4/2018, BC7 tham gia bán ma túy của Lê Hữu V để hưởng lợi ma túy sử dụng, cụ thể: khi có người hỏi BC7 mua ma túy thì BC7 thông báo lại cho V biết để đưa ma túy đi bán hoặc V kêu BC7 giao ma túy cho đối tượng nghiện ở trên địa bàn huyện B2, BC7 đã giao bán ma túy cho những người nghiện, sau: Trương Thanh Đ 01 lần, 01 bịch với số tiền 300.000 đồng; Danh Xa N 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Ngô Trường S 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Võ Thái D1 03 lần, 03 bịch, giá 1.100.000 đồng; Lâm Huy BC8 02 lần, 02 bịch, giá 800.000 đồng.

Như vậy, Nguyễn Việt BC7 đồng phạm giúp sức cho Lê Hữu V bán trái phép chất ma túy cho 05 người, 08 lần, 08 bịch với số tiền 2.800.000 đồng (Tiền bán ma túy BC7 đưa cho V), BC7 được V cho hưởng lợi ma túy sử dụng.

6. Đối với Lâm Huy BC8:

Trong quá trình điều tra Lâm Huy BC8 khai: Vào khoảng tháng 4/2018, BC8 mua ma túy tại quán Karaoke E và thị trấn B1, huyện B2 của những người sau: Lê Hữu V 05 lần, 05 bịch, giá 2.200.000 đồng; Trần Thạch BC4 02 lần, 02 bịch, giá 500.000 đồng, Nguyễn Việt BC7 02 lần, 02 bịch, giá 800.000 đồng; Phan Văn BC3 04 lần, 04 bịch, giá 1.500.000 đồng; BC1, BC5 03 lần, 03 bịch, giá 700.000 đồng.

Sau khi mua ma túy về, BC8 phân ra thành bịch nhỏ, vừa sử dụng vừa bán lại cho người nghiện từ tháng 6/2018 đến tháng 7/2018, cụ thể: khi có người đến gặp trực tiếp hoặc gọi điện thoại hỏi mua ma túy, BC8 trao đổi, thống nhất giá cả và địa điểm giao ở huyện B2, rồi bán cho những người nghiện, sau: Võ Thái D1 05 lần, 05 bịch, giá 2.600.000 đồng; Danh Thành U 02 lần, 02 bịch, giá 100.000 đồng; Người có tên R 02 lần, 02 bịch, giá 100.000 đồng.

Ngoài ra còn đi giao ma túy của V cho người mua 03 lần, cụ thể: Giao cho Nguyễn Phước BC1 01 lần, 01 bịch, giá 800.000 đồng và giao Nguyễn Việt BC7 02 lần, 02 bịch giá 800.000 đồng.

Như vậy, Lâm Huy BC8 đã mua ma túy của 05 người 16 lần, 16 bịch, số tiền 5.700.000 đồng; BC8 trực tiếp bán ma túy cho 3 người 09 lần, 09 bịch, thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội mà có là 3.000.000 đồng. Ngoài ra, BC8 đồng phạm giúp sức cho Lê Hữu V bán ma túy 03 lần, 03 bịch ma túy.

7. Đối với Huỳnh Kim BC5 và Nguyễn Phước BC1:

Trong khoảng thời gian từ tháng 08/2017 đến tháng 07/2018, Huỳnh Kim BC5 và Nguyễn Phước BC1 có quan hệ chung sống như vợ chồng. Vì mục đích hám lợi để có tiền tiêu xài chung và muốn có ma túy sử dụng, BC5 và BC1 đã mua ma túy của người có tên BC8 (không rõ tên và địa chỉ ở Thành phố Hồ Chí Minh) 04 lần, 04 bịch, giá 6.500.000 đồng; Lê Hữu V 04 lần, 04 bịch, giá 5.200.000 đồng và Trần Thạch BC4 02 lần, 02 bịch, giá 2.000.000 đồng tại quán Karaoke E và tại nhà BC5 ở thị trấn B1, B2 (trong đó có 03 lần, Nguyễn Phước BC1 đến nhận ma túy).

Nguồn ma túy trên, Huỳnh Kim BC5 đem về nhà phân ra thành nhiều bịch nhỏ để sử dụng và bán lại cho người nghiện. Cụ thể, khi có người gọi điện thoại hỏi mua thì BC5 trao đổi thống nhất giá cả, số lượng ma túy cần mua và địa điểm mua bán là tại quán Karaoke E, khu vực B2, A1 và thành phố G. Sau đó, BC5 trực tiếp đến điểm hẹn gặp người mua để lấy tiền và giao ma túy như đã thỏa thuận hoặc BC5 đưa ma túy cho Nguyễn Phước BC1 giao ma túy cho những người nghiện, cụ thể:

- Huỳnh Kim BC5 đã trực tiếp bán cho các đối tượng nghiện sau: Người có tên Lin (không rõ tên thật và địa chỉ) 02 lần, 02 bịch, giá 800.000 đồng; Lâm Huy BC8 01 lần, 01 bịch, giá 200.000 đồng; Danh Xa N 03 lần, 03 bịch với số tiền 300.000 đồng (có 02 lần mua 300.000 đồng chưa trả tiền); Người tên có U1 (không rõ tên thật và địa chỉ) 01 lần, 01 bịch với số tiền 300.000 đồng; Võ Thái D1 (Cống) 05 lần, 05 bịch với số tiền 1.400.000 đồng (có 01 lần mua 500.000 đồng chưa trả tiền).

- Huỳnh Kim BC5 đưa ma túy cho Nguyễn Phước BC1 giao bán cho các đối tượng sau: Danh Xa N 03 lần, 03 bịch với số tiền 900.000 đồng; Lâm Huy BC8 02 lần, 02 bịch, giá 500.000 đồng; Đỗ Văn BC7 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Lê Văn G1 01 lần, 01 bịch với số tiền 300.000 đồng; Lê Minh BC2 03 lần, 04 bịch, giá 3.800.000 đồng, trong đó có lần bán 02 bịch, giá 800.000 đồng bị bắt quả tang ngày 16/7/2018.

Như vậy, Huỳnh Kim BC5 và Nguyễn Phước BC1 đã mua ma túy tổng cộng 10 lần với số tiền 13.700.000 đồng. Huỳnh Kim BC5 bán ma túy cho 08 người, 12 lần, 12 bịch với số tiền 3.000.000 đồng và Nguyễn Phước BC1 bán 10 lần, 11 bịch, số tiền 5.800.000 đồng. Tổng cộng, BC5 và BC1 thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy 22 lần, 23 bịch, thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội mà có là 8.800.000 đồng (Tám triệu, tám trăm ngàn đồng).

Về vấn đề khác:

* Vật chứng trong vụ án:

1. Thu giữ của Nguyễn Phước BC1:

- 02 (hai) bịch nylon, gồm: 01 bịch nylon được hàn kín có kích thước khoảng 1cm x 1,5cm và 01 bịch nylon có kích thước khoảng 01cm x 03cm, bên trong 02 bịch nylon có chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn không đồng nhất nghi là chất ma túy, đã được niên phong trong phong bì màu trắng, là tang vật quả tang thu giữ trên người Lê Minh BC2, đánh dấu số 01.

- 02 (hai) bịch nylon, gồm: 01 bịch nylon được hàn kín có kích thước khoảng 01cm x 03cm và 01 bịch nylon có kích thước khoảng 04cm x 06cm bên trong 02 bịch nylon có chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn không đồng nhất nghi là chất ma túy là tang vật thu giữ trong phòng số 4, nhà trọ Tuyết Mai được niên phong, trong phong bì màu trắng, là tang vật quả tang thu giữ của Nguyễn Phước BC1 để trong Phòng số 4 nhà trọ Tuyết Mai, đánh dấu số 02.

- 01 điện thoại di động hiệu Mobitstar màu đen – đỏ (mất ốp lưng sau) số Imei 352221028432637 đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng hoạt động.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen số Imei 356259/01/540151/8 đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng hoạt động.

- Tiền Việt Nam: 800.000 đồng;

- 01 xe gắn máy hiệu Axelo biển số kiểm soát 68B1- 211.70, đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng hoạt động.

2. Thu giữ của Phan Văn BC3:

- 01 (một) bịch nylon đã được hàn kín bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể dạng rắn trong suốt nghi là chất ma túy được niên phong trong phong bì màu trắng, gửi giám định;

- 03 (ba) điện thoại di động, gồm: 01 cái hiệu OPPO màu trắng hồng, 01 cái hiệu OPPO màu trắng, 01 cái hiệu TK Mobile E2 màu nâu đen;

- Tiền Việt Nam: 900.000 đồng;

- 01 xe gắn máy hiệu Sirius màu đỏ đen, biển số kiểm soát 68M1- 27938.

3. Thu giữ của Lê Hữu V:

- 02 (hai) ống thủy tinh dạng ống có 01 đầu hình cầu bên trong hình cầu có chứa các hạt tinh thể dạng rắn nghi là chất ma túy được niên phong trong phong bì màu trắng, gửi giám định;

- 01 (một) bịch nylon đã được hàn kín bên trong có chứa loại thảo mộc khô nghi là chất ma túy được niên phong trong phong bì màu trắng, gửi giám định;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng bị bể màn hình.

4. Thu giữ của Lâm Văn Hữu BC6:

- 06 (sáu) bịch nylon đã được hàn kín bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể dạng rắn trong suốt nghi là chất ma túy được niên phong trong phong bì màu trắng, gửi giám định;

- 02 (hai) điện thoại di động, gồm: 01 cái hiệu VIVO màu đèn, 01 cái hiệu VIVO màu trắng – vàng.

5. Thu giữ của Lâm Huy BC8:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Masster mày xanh số Imeil 351670091661269.

6. Thu giữ của Trần Thạch BC4.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, model 1280, Type RM-647, đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng hoạt động.

* Theo kết luận giám định số: 616/KL-KTHS ngày 23/7/2018 của Phòng kỷ thuận hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận (của Nguyễn Phước BC1):

- Mẫu 01: các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất đựng trong 02 (hai) bịch Nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,0858 gam.

- Mẫu 02: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất đựng trng 02 (hai) bịch Nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 4,6059 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

* Theo kết luận giám định số: 617/KL-KTHS ngày 23/7/2018 của Phòng kỷ thuận hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận (của Lâm Văn Hữu BC6):

Các tinh thể dạng rắn chứa trong 06 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng gửi giá định là 2,6403 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

* Theo kết luận giám định số: 618/KL-KTHS ngày 23/7/2018 của Phòng kỷ thuận hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận (của Phan Văn BC3):

Các tinh thể rắn, màu trắng không đồng nhất chưa trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng gửi giá định là 0,0913gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

* Theo kết luận giám định số: 619/KL-KTHS ngày 23/7/2018 của Phòng kỷ thuận hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận (của Lê Hữu V):

- Mẫu 1: Các tinh thể dạng rắn đựng trong 02 ống thủy tinh dạng ống có một đầu hình cầu được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng gửi giá định là 0,1771gam.

- Mẫu 2: Thảo mộc khô đựng trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định có khối lượng gửi giám định là 0,2307gam. Sau khi giám định sơ bộ, phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Kiên Giang thấy không đủ điều kiện để giám định tiếp nên không kết luận.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

* Theo kết luận giám định số 3193/KL-KTHS ngày 7/8/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận (của Lê Hữu V):

Thảo mộc khô đựng trong 01 gói nylon có chữ ghi “619/M2” được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại AMB-FUBINACA, có khối lượng gửi giám định là 0,1854gam.

Theo Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP ngày 14/11/2015, mẫu ma túy theo Quyết định trưng cầu giám định số 32 ngày 30/7/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang không thuộc nhóm phải xác định hàm lượng. Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh không trả lời hàm lượng theo yêu cầu của Cơ quan cảnh sát điều tra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Hữu V, Trần Thạch BC4, Huỳnh Kim BC5, Nguyễn Phước BC1, Phan Văn BC3, Lâm Văn Hữu BC6, Nguyễn Việt BC7 và Lâm Huy BC8 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s, r khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu V 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/7/2018.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 28/01/2019, bị cáo Lê Hữu V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

 Tại phiên Tòa phúc thẩm: Bị cáo Lê Hữu V thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo V như nội dung của bản án sơ thẩm đã nêu, nhưng kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt, do hiện còn mẹ già và có 02 (hai) con nhỏ đang bị bệnh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo V kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ gì mới theo quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo V và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Hữu V thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo V như nội dung của bản án sơ thẩm đã nêu, cụ thể:

Trong khoảng thời gian từ tháng 03/2018 đến tháng 05/2018, Lê Hữu V đưa tiền cho Trần Thạch BC4 mua ma túy 02 lần, số tiền 11.300.000 đồng. Khi mua ma túy về, BC4 không đưa ma túy cho V, mà BC4 trực tiếp bán cho các đối tượng nghiện và đưa V số tiền 2.700.000 đồng.

Từ tháng 4/2018 đến ngày 13/7/2018, V mua ma túy của những người sau: Người có tên Thành (không rõ tên thật và địa chỉ) 01 lần, 01 bịch, giá 2.000.000 đồng ở ngã tư An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh; Người có tên E1 (không rõ tên thật và địa chỉ) 03 lần, 03 bịch, giá 2.700.000 đồng tại khu vực phường 8, thành phố Cà Mau và tại quán Karaoke E; Người đàn ông không rõ tên ở Thành phố Hồ Chí Minh 01 lần, 01 bịch, giá 11.500.000 đồng (lần này V đưa tiền cho BC6 và BC3 mua).

Nguồn ma túy trên, V đem về nhà phân ra thành nhiều bịch nhỏ để sử dụng và bán lại cho người nghiện với hình thức, khi có người nghiện gọi điện thoại hỏi mua ma túy, V trao đổi thống nhất giá cả, số lượng ma túy cần mua và địa điểm mua bán là tại quán Karaoke E, khu vực huyện B2, A1... hoặc V kêu Lâm Huy BC8, Nguyễn Việt BC7 và Phan Văn BC3 giao bán cho đối tượng nghiện; đồng thời V còn đưa ma túy cho Lâm Văn Hữu BC6 và Phan Văn BC3 giữ và tự liên hệ bán cho người nghiện, sau đó BC8, BC7, BC3 và BC6 đưa tiền lại cho V và được V cho hưởng lợi ma túy sử dụng, cụ thể:

- Lê Hữu V trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng sau: Ngô Trường S 02 lần, 02 bịch, giá 700.000 đồng; Nguyễn Thanh N1 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Trương Thanh Đ 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Danh Xa N 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Võ Thái D1 (Cống) 07 lần, 07 bịch với số tiền 3.700.000 đồng; Lâm Huy BC8 04 lần, 04 bịch, giá 2.200.000 đồng; Nguyễn Việt BC7 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Trần Hải D 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Trần Thạch BC4 03 lần 03 bịch với số tiền 2.400.000 đồng; Nguyễn Quốc G2 03 lần, 03 bịch, giá 1.500.000 đồng; Huỳnh Kim BC5 và Nguyễn Phước BC1 01 lần, 01 bịch, giá 1.100.000 đồng; Trương Thị Phương L1 01 lần, 01 bịch, giá 500.000 đồng.

- Lê Hữu V đưa ma túy cho Phan Văn BC3 giữ 3 lần, 15 bịch để bán cho người nghiện và BC3 đưa tiền cho V 4.400.000 đồng; V đưa ma túy cho Lâm Văn Hữu BC6 giữ 02 lần 05 bịch để bán cho các đối tượng nghiện và BC6 đưa cho V 2.200.000 đồng.

- Lê Hữu V giao ma túy cho Phan Văn BC3 bán cho Nguyễn Phước BC1 02 lần, 02 bịch, giá 1.200.000 đồng và Trương Thị Phương L1 01 lần, 01 bịch giá 900.000 vào ngày 16/7/2018 bị bắt quả tang.

- Lê Hữu V giao ma túy cho Nguyễn Việt BC7 bán cho các đối tượng nghiện sau: Trương Thanh Đ 01 lần, 01 bịch với số tiền 300.000 đồng; Danh Xa N 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Ngô Trường S 01 lần, 01 bịch, giá 300.000 đồng; Võ Thái D1 03 lần, 03 bịch, giá 1.100.000 đồng; Lâm Huy BC8 02 lần, 02 bịch, giá 800.000 đồng.

- Lê Hữu V giao ma túy cho Lâm Huy BC8 bán cho các đối tượng nghiện sau: Nguyễn Phước BC1 01 lần, 01 bịch, giá 800.000 đồng và giao Nguyễn Việt BC7 02 lần, 02 bịch giá 800.000 đồng.

Như vậy, bị cáo V đã mua ma túy 07 lần, 07 bịch với số tiền 27.700.000 đồng. Lê Hữu V trực tiếp bán ma túy cho 12 người, 26 lần, 26 bịch; Giao cho Phan Văn BC3 và Lâm Văn Hữu BC6 giữ để bán ma túy 05 lần, 20 bịch; Đưa ma túy cho Lâm Huy BC8, Nguyễn Việt BC7 và Phan Văn Văn giao bán 14 lần, 14 bịch. Trần Thạch BC4 bán ma túy đưa V số tiền là 2.700.000 đồng. Tổng cộng, bị cáo V đã thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy 45 lần, 60 bịch, thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội mà có là 31.500.000 đồng.

[2] Những hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Hữu V phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Trong vụ án này, mặc dù các bị cáo không có sự bàn bạc, tổ chức chặt chẽ nhưng đã mốc nối mua bán qua lại với nhau hình thành các tụ điểm mua bán trái phép tại các địa bàn huyện B2, A1 và thành phố G, tỉnh Kiên Giang hoạt động tinh vi, phức tạp gây xáo trộn an ninh tại địa phương. Bị cáo V có mức độ phạm tội nghiêm trọng nhất so với các bị cáo khác trong cùng vụ án thực hiện mua bán ma túy 45 lần, 60 bịch, thu lợi bất chính 31.500.000 đồng, lôi kéo các bị cáo Phan Văn BC3, Lâm Văn Hữu BC6, Nguyễn Việt BC7 và Lâm Huy BC8 giúp sức mua bán trái phép chất ma túy nhằm thu lợi cho bị cáo, nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) xử phạt bị cáo Lê Hữu V với mức án cao hơn các bị cáo khác trong cùng vụ án là phù hợp với hành vi, tính chất phạm tội của bị cáo V.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo V thừa nhận hành vi phạm tội của mình, biết rõ tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ con người, là nguyên nhân của các tệ nạn khác trong xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và Nhà nước nghiêm cấm nhưng vì động cơ vụ lợi bị cáo vẫn thực hiện hành vi mua bán ma tuý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm sự quản BC6 độc quyền của nhà nước về chất ma tuý, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Việc mua bán ma tuý cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến làm tăng tệ nạn nghiện ngập và phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, do đó, cần có mức hình phạt khiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tại giai đoạn điều tra cũng như tại tòa bị cáo V tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú về hành vi phạm tội của mình, đã tự nguyện giao nộp tiền thu lợi bất chính, nên bản án của Tòa án cấp sơ thẩm khi lượng hình xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Hữu V 10 (mười) năm tù là phù hợp quy định pháp luật.

[6] Bị cáo V kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ gì mới theo quy định pháp luật. Các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ, toàn diện khi quyết định hình phạt nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo V và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ và đúng pháp luật.

[7] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[8] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo V phải chịu theo quy định pháp luật về án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Hữu V.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2019/HS-ST ngày 23 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Xử:

Tuyên bố: bị cáo Lê Hữu V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s, r khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu V 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/7/2018.

Tiếp tục giam bị cáo V để đảm bảo thi hành án.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Hữu V phải chịu 200.000 đồng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 351/2019/HS-PT ngày 24/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:351/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về