TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 350/2019/HSPT NGÀY 11/11/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 269/2019/TLPT-HS ngày 31/7/2019 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 24/06/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1447/2019/QĐXXPT-HS ngày 20/10/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Bị cáo : Ng uyễn Duy H (HX) sinh ngày 10/12/1978 tại Bình Định; nơi cư trú: huyện H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thái S (chết) và bà Lê Thị M, sinh năm 1960; vợ là Trần Thị N, sinh năm 1983; có 03 con, lớn nhất 16 tuổi, nhỏ nhất 10 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: + Ngày 03/6/2011 bị Tòa án nhân tỉnh Quảng Nam tại bản án hình sự phúc thẩm số 103/2011/HSPT xử phạt H 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”,
+ Ngày 22/7/2014 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định tại bản án hình sự sơ thẩm số 23/2014/HSST xử phạt H 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/6/2015 tại Trại giam K, Tổng cục VIII, hiện nay đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 31/01/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định của Tòa án, phân công của Đoàn Luật sư tỉnh Bình Định: Luật sư Hồ K, Văn phòng luật sư Bình Định thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Định, Luật sư có mặt.
- Bị hại: Nguyễn Thành L (đã chết).
- Đại diện bị hại:
+ Ông Nguyễn Thanh L1 (cha bị hại), sinh năm 1956, có mặt tại phiên tòa;
+ Bà Dương Thị T (mẹ bị hại), sinh năm 1959, có mặt tại phiên tòa;
+ Chị Nguyễn Thị A (chung sống như vợ chồng với bị hại), sinh năm 1993, có mặt tại phiên tòa;
Ông L1, bà T, chị A cùng trú tại: Thôn V, xã A, huyện H, Bình Định.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là Luật sư Nguyễn Thanh H, Đoàn luật sư tỉnh Bình Định, luật sư H có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19h00 ngày 30/01/2019, Nguyễn Thành L, Trần Văn P và Trần Văn P1 (em ruột P) nhậu tại nhà của P và uống khoảng hơn 01 lít rượu trắng. Sau khi nhậu xong khoảng 22h30 cùng ngày, P1 bảo L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29M-1249 chở P1 và P đến nhà bà Phạm Thị X lấy 02 cây rựa để sáng hôm sau P1 đi hái dừa thuê. Khoảng 22h45 cùng ngày, từ nhà bà X, L điều khiển xe mô tô chở P1 và P (ngồi sau, cầm 02 cái rựa bỏ trong 01 cái bao cước màu trắng) để đi về nhà P. Khi đến cây xăng dầu số 36 (ngã ba đường X thuộc huyện H, tỉnh Bình Định) thì L vào đổ xăng; lúc này, Nguyễn Duy H điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 77A-091.56 vào khu vực cây xăng dầu, cách trụ bơm xăng khoảng 15m, dừng chờ đón khách. Do quen biết nhau, nên P bỏ bao đựng rựa tại xe mô tô, rồi cùng P1 đi bộ đến chỗ đậu xe ô tô nói chuyện với H; thấy vậy, L đi đến nơi H đang nói chuyện với P và hỏi H “Đ. Mẹ ông muốn gì”? H trả lời “Chứ mày hỏi ai đây” nên L chạy đi lấy 01 cây rựa trong bao rồi chạy đến nói với H “Tôi chém chết mẹ ông luôn”, rồi cầm rựa rượt chém H nhưng được P1 và P can ngăn nên không trúng; quá trình can ngăn, P1 cầm trúng lưỡi rựa nên tay phải bị thương tích, chảy máu. L tiếp tục cầm rựa đuổi chém, H bỏ chạy đến khu vực quán ốc của bà Phạm Thị P (đối diện với cây xăng phía bên đường H, cách cây xăng khoảng hơn 30m) và H dùng ghế nhựa đỡ nên không trúng. H tiếp tục chạy đến nơi đỗ xe ô tô của mình thì L tiếp tục cầm rựa đuổi theo chém nhưng được P1 và P can ngăn và đẩy L đi về trụ bơm xăng, nên chưa gây thương tích cho H. H mở cửa xe ô tô bên tài lấy 01 con dao dài 27cm, cầm bằng tay phải đi đến đứng phía sau trụ bơm xăng cách nơi L đứng khoảng hơn l,5m; H nói với L “Mày đừng chặt tao nữa”, thì L nói “Đ.mẹ tao chém chết mẹ mày luôn”; H nói lại “Mày thích thì mày chém”. Vừa nói, H vừa dùng tay trái “vẫy” ra hiệu gọi L đến và cầm dao thủ thể thì L chạy đến chỗ để xe mô tô lấy thêm 01 cây rựa trong bao, rồi hai tay cầm 02 cây rựa, xông đến chém H; H vừa thủ thế vừa lùi. L cầm rựa xông vào thì bị H cầm dao bằng tay phải đâm 01 nhát trúng bụng bên trái của L; L tiếp tục chạy theo H khoảng 3m thì ngã xuống nền xi măng. Thấy L nằm bất động máu chảy nhiều nên H cùng với P1 và P đưa L lên xe ô tô của H chở đến Bệnh viện Đa khoa Khu vực B cấp cứu, nhưng L đã chết trên đường đến Bệnh viện. Sau đó H đến Công an huyện H đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 14 ngày 13/02/2019, Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định kết luận nguyên nhân chết của Nguyễn Thành L là sốc mất máu do vết thương thấu bụng, ngực thủng tim. Tại Bản kết luận số 125 ngày 31/3/2019, Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận, trên dao và các chất màu nâu ghi thu tại vị trí số 06 và số 07 có máu của Nguyễn Thành L. Về dân sự thì gia đình người bị hại Nguyễn Thành L thống kê chi phí mai táng số tiền 59.000.000 đồng, gia đình bị cáo H đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 50.000.000 đồng.
- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 24/6/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “Giết người”. Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 31/01/2019.
Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 585; 586 và 591 của BLDS, buộc bị cáo Nguyễn Duy H phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn Thanh L1, bà Dương Thị T và bà Nguyễn Thị A số tiền 129.000.000 đồng ngoài số tiền 50.000.000đ đã bồi thường trước; số tiền này do ông Nguyễn Thanh L1 và bà Dương Thị T đại diện nhận.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự Tịch thu tiêu hủy. 01 bao cước nhựa màu trắng hiệu Green Feed có ghi “thức ăn hỗn hợp đặc biệt Winner-3 cho heo con sau cai sữa” 01 bao cước nhựa màu trắng nâu hiệu Candv2 có ghi “thức ăn hỗn hợp đặc biệt”. 01 cây rựa dài 63cm, lưỡi dài 30cm, nơi rộng nhất là 04cm, cán bằng tre dài 33cm, đường kính cán 3,5cm, dính chất màu nâu. 01 cây rựa dài 53cm, lưỡi dài 24cm, nơi rộng nhất là 03cm, cán bang tre dài 29cm, đường kính cán 3cm, dính chất màu nâu. 01 con dao dài 28,7cm, lưỡi dao bàng kim loại màu đen dài 16,5cm, nơi rộng nhất của lưỡi dao là 3,1 cm, trên lưỡi dao có 01 ký hiệu đầu trâu và có dòng chữ TAURUS® ChangJian WuJin, có chữ USA; mũi dao nhọn, cán dao bằng nhựa màu rằn ri, nơi rộng nhất của cán dao là 6,1 cm, thân cán dao có la bàn, cuối chuôi cán dao có chụp kim loại màu trắng. Phần cán dao và lưỡi dao có dính chất màu đỏ (nghi là máu) 1 áo sơ mi cũ dài tay màu xám đen, hiệu Levis, số áo XL, trên tay áo phía bên trái và phía bên phải có dính chất màu đỏ (nghi là máu). 01 quần Jean dài màu xanh, hiệu GUARANTEEPTT quần dính nhiều chất màu đỏ (nghi là máu) Mẫu máu của nạn nhân Nguyễn Thành L (sinh năm 1993, trú thôn V, xã A, huyện H, Bình Định). Chất màu nâu ghi thu tại vị trí số 06, 07. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/6/2019 giữa Cơ quan CSĐT công an tỉnh Bình Định và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định). Lưu vào hồ sơ vụ án: 01 USB đã niêm phong trích xuất dữ liệu camera ngày 31/01/2019 tại cây xăng dầu số 36 (ngã ba đường X thuộc khu phố Gia Chiểu 2, TT. Tăng Bạt Hổ, huyện H) (Theo biên bản giao nhận ngày 09.5.2019 giữa VKSND tỉnh Bình Định và TAND tỉnh Bình Định).
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; 6.450.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Kháng cáo:
- Ngày 05/7/2018, chị Nguyễn Thị A, ông Nguyễn Thành L1 và bà Dương Thị T đều có Đơn kháng cáo cho rằng bị cáo H (còn gọi HX) và Luật sư H bảo vệc quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại đề nghị cấp phúc thẩm xem xét bị cáo H có 02 tiền án chưa được xóa án tích nên phạm tội lần này là tái phạm. Lần phạm tội này H gây sự trước bằng việc tạt ly bia vào người anh Nguyễn Văn G (bạn của bị hại Nguyễn Thành L) nên anh L can ngăn, nhưng H dọa giết chết anh L nên xảy ra sự việc nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xác định bị cáo H tái phạm và xác định không đúng hành vi phạm tội của H nên chỉ xử phạt H 08 năm tù là nhẹ, đề nghị tăng hình phạt lên 12 năm tù. Về dân sự yêu cầu cấp dưỡng cho cha mẹ bị hại mỗi người 1 triệu đồng/tháng, 2 con bị hại mỗi con 2 triệu đồng/ tháng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo H: Đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo H: đề nghị Tòa án không chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đạ i diện bị hạ i và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại giữ nguyên kháng cáo với 2 nội dung: đề nghị tăng hình phạt và tăng bồi thường.
Đạ i diện Viện kiể m sát phát biểu quan điểm:
+ Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, các Thẩm phán, thành viên Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.
+ Về nội dung: Đề nghị giữ nguyên hình phạt, về trách nhiệm dân sự đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:
[1]. Về tội danh, khung hình phạt:
Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 22 giờ 45’ ngày 30/01/2019, Nguyễn Duy H đến cây xăng dầu số 36 thì bị Nguyễn Thành L (đã say rượu) chủ động gây sự và dùng rựa rượt đuổi chém H nhiều lần nhưng H bỏ chạy nên chưa bị thương tích. Bực tức vì bị L vô cớ đuổi chém nên H lấy 01 con dao có sẵn trên xe ô tô cầm bằng tay phải đứng thách thức với L thì L tiếp tục cầm 02 cây rựa xông tới thì H dùng dao đâm 01 nhát trúng bụng bên trái của L. Xét, khi bị anh L cầm rựa xông tới, tuy bị ức chế về tinh thần nhưng đã được can ngăn và anh L đã ngừng tấn công nhưng H vẫn lấy dao và có hành vi khiêu khích dẫn đến anh L tiếp tục xông tới và H đã cố tình cầm dao nhọn đâm một nhát chí mạng vào vùng trọng yếu trên cơ thể anh L, thấu bụng, thủng cuống tim dẫn đến anh L mất máu cấp, tử vong ngay sau đó. Với hành vi nêu trên của H thì Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo H phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và hình phạt:
Tại phiên tòa đại diện bị hại và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại cho rằng bị cáo H có tiền án chưa được xóa án tích nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét lần phạm tội này của H là tái phạm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy: Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 103/2011/HSPT ngày 03/6/2011 Tòa án nhân tỉnh Quảng Nam xử phạt H 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” và Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2014/HSST ngày 22/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định xử phạt H 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; bị cáo H đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/6/2015 tại Trại giam K, Tổng cục VIII và đã chấp hành xong nghĩa vụ nộp án phí hình sự đối với cả 2 bản án nêu trên, có xác nhận của Cơ quan Thi hành án dân sự (bút lục 99, 103, 104); do đó, cấp phúc thẩm xét thấy đề nghị của đại diện bị hại và Luật sư là không có cơ sở để được chấp nhận.
Bị cáo H có nhân thân xấu nhưng không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo H đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã bồi thường một phần cho đại diện bị hại; phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra nên bị cáo H được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, e, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; sau khi đâm bị hại bị cáo H đã tích cực đưa bị hại đi cấp cứu và sau đó ra đầu thú nên được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và tại phiên tòa hôm nay gia đình bị cáo H còn cung cấp Giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo do UBND xã Ân Hữu cấp cho gia đình bị cáo H. Như vậy, bị cáo H không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ; khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo H 08 năm tù là có cơ sở, đúng pháp luật nên cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại yêu cầu tăng hình phạt với bị cáo H.
[3]. Về trách nhiệm dân sự:
Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện bị hại yêu cầu bị cáo H bồi thường chi phí mai táng là 59.000.000 đồng và bị cáo đồng ý. Tòa án sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường cho đại diện bị hại 100.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần, 20.000.000 đồng tiền cấp dưỡng cho cha mẹ bị hại. Tổng cộng, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường 179.000.000 đồng, trừ 50.000.000 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường trước nên buộc bị cáo phải bồi thường tiếp tục 129.000.000 đồng. Xét, mức bồi thường và cấp dưỡng cho cha mẹ bị hại như Tòa án cấp sơ thẩm xét như trên là thỏa đáng, đối với yêu cầu của cha mẹ bị hại yêu cầu cấp dưỡng cho cha mẹ bị hại mỗi người 2 triệu đồng/tháng không có cơ sở nên cấp phúc thẩm không chấp nhận.
Tại cấp sơ thẩm, chị Nguyễn Thị A trình bày chị và anh Nguyễn Thành L có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương, tuy không đăng ký kết hông nhưng hai người về chung sống với nhau như vợ chồng và sinh được 02 con nhỏ nên yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo cấp dưỡng nuôi hai cháu đến tuổi trường thành. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét việc chị A và anh L không đăng ký kết hôn và Giấy khai sinh 02 con của chị A không ghi tên cha là anh Nguyễn Thành L nên xét không có căn cứ buộc bị cáo cấp dưỡng cho 02 cháu nhỏ như yêu cầu của chị A là đúng pháp luật; Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã dành cho chị A khi có đủ cơ sở có quyền khởi kiện yêu cầu bị cáo cấp dưỡng cho 2 cháu nhỏ là có cơ sở, đúng pháp luật. Chị A kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm có đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét vấn đề này nhưng không cung cấp được căn cứ chứng minh 02 cháu nhỏ là con của anh Nguyễn Thành L nên cấp phúc thẩm không có cơ sở xét yêu cầu này của chị A. Vì những căn cứ nêu trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của cha mẹ bị hại và đề nghị của chị A về vấn đề trách nhiệm dân sự của bị cáo nên giữ nguyên quyết định tại bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự của bị cáo.
[4]. Về xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5]. Về án phí phúc thẩm: Đại diện bị hại kháng cáo cả phần dân sự, không được chấp nhận lẽ ra phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nhưng vì cha mẹ bị hại là người cao tuổi nên được miễn nộp.
Từ nhận định tại các mục trên,
QUYẾT ĐỊNH
I/ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 24/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, cụ thể như sau:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “Giết người”. Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 31/01/2019.
- Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 585; 586 và 591 của Bộ luật dân sự buộc bị cáo Nguyễn Duy H bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn Thanh L1, bà Dương Thị T và chị Nguyễn Thị A số tiền 129.000.000 đồng, ngoài số tiền 50.000.000 đồng đã bồi thường trước, số tiền này do ông Nguyễn Thanh L1 và bà Dương Thị T đại diện nhận. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
- Các quyết định khác tại bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
II/ Án phí phúc thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho đại diện bị hại.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 350/2019/HSPT ngày 11/11/2019 về tội giết người
Số hiệu: | 350/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về