Bản án 349/2020/HNGĐ-ST ngày 19/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 349/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 276/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Mỹ Ph, sinh năm 1990. Có mặt Địa chỉ: tổ 60 phường Minh Phương, thành phố V, tỉnh Phú Thọ

2. Bị đơn: Anh Lê Văn L, sinh năm 1990. Có mặt Địa chỉ: Thôn Trà Sơn, xã Hoằng Kh, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn chị Lê Thị Mỹ Phương, bị đơn anh Lê Văn Luận có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/8/2020, bản tự khai, biên bản hòa giải và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn chị Lê Thị Mỹ Ph thể hiện:

Tôi (Phương) và tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND xã Hoằng Kh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2018. Sau khi cưới vợ chồng sống với nhau bình thường đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm vợ chồng thường xuyên cãi nhau rất nhiều lần. Hiện nay anh L đang mang con về quê, tôi cũng đã nhiều lần nói anh L mang con ra cho tôi vì cháu đang còn nhỏ, nhưng anh L vẫn không mang cháu ra, mà muốn tôi để cháu ở nhà với anh và bà nội, cuối tuần tôi sẽ phải về trong Thanh Hóa, tôi không đồng ý với yêu cầu của anh L nên vợ chồng cãi nhau. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho tôi xin được ly hôn với anh L.

Về con: Vợ chồng tôi có 01 con chung cháu tên là Lê Gia Hân, sinh ngày 27/5/2019. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu. Hiện nay tôi làm Công ty dược Trung ương tại Mê Linh, Vĩnh Phúc nên mức thu nhập của tôi mỗi tháng là 8.000.000 đồng. Đề nghị Tòa án giải quyết.

Về cấp dưỡng: Tôi yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đ( Hai triệu đồng).

Về tài sản và công nợ: Tôi đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự về phần tài sản chung của vợ chồng theo biên bản thỏa thuận ngày 21/8/2020 như sau:

-01 sổ tiết kiệm tại chi nhánh Ngân hàng Agri bank chi nhánh Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Số tiền gửi: 55.000.000đ( năm mươi lăm triệu đồng). mang tên anh Lê Văn L.

Anh L, chị Ph thống nhất: Giao số tiền 55.000.000đ( năm mươi lăm triệu đồng). mang tên anh Lê Văn Luận cho cháu Lê Gia Hân khi nào cháu đủ 18 tuổi ( Do hiện nay cháu đang còn nhỏ nên anh Luận sẽ là người quản lý cho cháu).

Tại bản tự khai ngày 28/8/2020; Biên bản hòa giải ngày 16/9/2020 và lời khai tại phiên tòa của anh Lê Văn L thể hiện:

Về hôn nhân: Tôi (L) và cô Ph tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND xã Hoằng Kh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2018. Sau khi cưới vợ chồng sống với nhau bình thường đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân tôi về quê trong Thanh Hóa làm việc, cô Ph làm việc tại Hà Nội, thời gian trước vợ chồng sống với nhau bình thường và chưa có con chung thì ông ngọai( bố của cô Ph) yêu cầu vợ chồng tôi phải chu cấp cho em gái Ph học đại học. Khi chúng tôi có con chung thì chúng tôi có nhờ bà ngoại trông cháu, vợ chồng mỗi tháng đưa cho bà 2.000.000đ( Hai triệu đồng), tôi cũng đã thấy tôi thương vợ và có trách nhiệm với gia đình nhà vợ, nhưng mẹ vợ tôi nhiều lần xúc phạm tôi, có lần vào dịp tết thì tôi có mua cho con gái tôi một con lợn để tiền mừng tuổi, khi ra Hà nội ở thì mẹ vợ tôi có xuống trông cháu. Tôi đi làm về thấy con lợn đã không còn tiền, thì tôi có nói tại sao mẹ lại lấy tiền trong con lợn là tiền mừng tuổi của cháu, mẹ vợ tôi không thừa nhận và tôi và bà mẹ có đôi co nhau, mẹ vợ tôi có chửi tôi “sư cha nhà bay” tôi thiết nghĩ bố tôi đã mất mà mẹ vợ tôi dám xúc phạm bố tôi, nên tôi có tát mẹ vợ tôi mấy cái. Nhưng sáng hôm sau ngủ dậy biết mình đã sai và xin lỗi mẹ vợ và đưa bà đi khám bác sỹ nhưng không việc gì cả.

Tôi làm nghề lái xe trên Lào Cai chở hàng sang Trung Quốc. Từ khi có dịch covits thì tôi có về nhà ông ngoại ở, vì vợ tôi đang ở nhà ông ngoại. Khi đó tôi có nói với vợ tôi, đang dịch anh đưa con về nội trong Thanh Hóa thăm bà nội và gia đình bên nội, nhưng vợ tôi không về và vợ chồng cãi nhau, tôi bế con về thì ông ngoại bố cô Ph không cho tôi bế cháu về và bảo báo cáo chính quyền địa phương, tôi nói với ông con có làm chi mà ông báo cáo và gia đình nhà ngoại can thiệp vào quá nhiều công việc của vợ chồng tôi kể cả tiền nong.

Từ khi tôi và cháu Lê Gia Hân về trong Thanh Hóa, thì tôi thấy tình hình dịch bệnh kéo dài nên đã xin việc và làm trong quê, nên không có ý định ra ngoài đó nữa. Tôi đã nhiều lần động viên vợ để con gái ở nhà cùng tôi và bà nội của cháu, cuối tuần cô Ph về nhưng cô Ph không đồng ý. Nay cô Ph làm đơn xin ly hôn thì tình cảm vợ chồng vẫn còn nên tôi có nguyện vọng được đoàn tụ để nuôi dạy con cái.

Về con: Vợ chồng tôi có 01 con chung Lê Gia Hân, sinh ngày 25/7/2019. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu cô Ph cấp dưỡng nuôi con, vì từ khi cháu về trong quê ở với tôi và bà nội, tôi đang chăm sóc cháu rất tốt, mẹ tôi ở nhà chăm cháu khi tôi đi làm. Hiện nay tôi đang làm ở công ty TNHH Ngọc Thực( Phú Khê- Hoằng Phú) mức thu nhập của tôi là 13.500.000đ/ tháng, nên tôi đảm bảo cho việc chăm sóc cháu. Nếu cô Phương cương quyết ly hôn thì tôi có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu cấp dưỡng. Nếu tòa án giao con cho cô Ph nuôi thì tôi có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu mỗi tháng là 2.000.000đ( Hai triệu đồng).

Về tài sản và công nợ: Tôi đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận về phần tài sản theo biên bản thỏa thuận ngày 21/8/2020 .

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về quá trình tố tụng và đề xuất hướng giải quyết vụ án: Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo luật định. Về hôn nhân: Chị Lê Thị Mỹ Ph và anh Lê Văn L kết hôn năm 2018. Vợ chồng sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn giữa vợ chồng không thống nhất dẫn đến ngày một gay gắt không hòa giải nổi. Nay chị Ph có nguyện vọng xin ly hôn anh L. Anh mong muốn đoàn tụ còn chị cương quyết ly hôn. Đại diện VKS nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Thể hiện tình cảm vợ chồng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, cuộc sống hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị Lê Thị Mỹ Ph được ly hôn với anh Lê Văn L. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Lê Gia Hân, sinh ngày 27/5/2019. Từ khi vợ chồng sống ly thân anh L mang cháu về Thanh Hóa cho đến nay mặc dù anh và bà nội chăm sóc cháu rất tốt nhưng do cháu đang còn nhỏ cháu mới có 16 tháng 22 ngày, mặc dù anh có nguyện vọng nuôi cháu nhưng chị Phương cũng có nguyện vọng nuôi cháu cả chị Ph và anh đều có thu nhập ổn định. Do đó căn cứ theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Phương. Không chấp nhận yêu cầu nuôi con của anh Luận. Về cấp dưỡng: Anh L, chị Ph thống nhất mức cấp dưỡng 2.000.000đ/tháng. Về tài sản: Đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự về phần tài sản chung của vợ chồng theo biên bản thỏa thuận ngày 21/8/2020 cho chị Ph, anh L.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị Mỹ Ph không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị Mỹ Ph khởi kiện xin ly hôn anh Lê Văn L và xin được nuôi con chung. Căn cứ vào quy định tại Điều 68 BLTTDS xác định chị Ph là nguyên đơn, anh L là bị đơn.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Anh Lê Văn L có địa chỉ tại thôn Trà Sơn, xã Hoằng Kh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. D o đ ó c ăn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Mỹ Ph thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[ 1. 3] Về quan hệ pháp luật : Chị Lê Thị Mỹ Ph khởi kiện xin ly hôn anh Lê Văn Luận và đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi con chung nên được xác định là tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc lĩnh vực dân sự.

Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, lãnh đạo địa phương xã Hoằng Xuân xác nhận: Anh Lê Văn L và chị Lê Thị Mỹ Ph tự nguyện kết hôn được UBND xã Hoằng Kh cấp giấy chứng nhận kết hôn( nay là xã Hoằng Xuân), vợ chồng anh chị có 01 con chung Lê Gia Hân, sinh ngày 27/5/2019, từ đầu năm 2020 anh L đưa cháu Hân về nhà ở với anh và bà nội cháu tại xã Hoằng Xuân sinh sống cho đến nay.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Mỹ Ph và anh Lê Văn L kết hôn với nhau vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân xã Hoằng Kh, huyện Hoằng Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa giải nổi, vợ chồng sống đã sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Do đó HĐXX xét thấy tình cảm của anh chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Mỹ Ph đối với anh Lê Văn L là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2.2]Về con: Vợ chồng tôi có 01 con chung Lê Gia Hân, sinh ngày 27/5/2019. Hiện nay cháu đang ở với anh Luận. Nay ly hôn chị Ph, anh L có nguyện vọng nuôi cháu và không yêu cầu cấp dưỡng.

Xét yêu cầu nuôi con của chị Ph: Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu nuôi con của chị Phương là phù hợp vì hiện nay cháu đang còn nhỏ nên cần có sự quan tâm chăm sóc của người mẹ hơn bố, trong khi đó cháu Hân mới 16 tháng 22 ngày tuổi. Hiện nay mức thu nhập của chị Phương mỗi tháng 8.000.000đ. Nên căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị Mỹ Ph giao cháu Hân cho chị Ph được nuôi dưỡng.

Đối với yêu cầu nuôi con của anh L: Từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay anh L đưa cháu về Thanh Hóa, mặc dù từ đó đến nay, anh chăm sóc cháu Hân rất tốt, khi anh đi làm có bà nội ở nhà chăm sóc cháu, mức thu nhập của anh 13.500.000đ/ tháng, nhưng do cháu đang còn nhỏ mới có 16 tháng 22 ngày tuổi nên cần giao cháu Hân cho mẹ cháu trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó HĐXX không chấp nhận yêu cầu nuôi con của anh L .

Về cấp dưỡng: Chấp nhập sự thỏa thuận tại phiên tòa anh L có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ph mỗi tháng là 2.000.000đ( Hai triệu đồng).

[3]Về tài sản: Chị Ph, anh L đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự về phần tài sản chung của vợ chồng theo biên bản thỏa thuận ngày 21/8/2020 như sau:

-01 sổ tiết kiệm tại chi nhánh Ngân hàng Agri bank chi nhánh Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Số tiền gửi: 55.000.000đ( năm mươi lăm triệu đồng). mang tên anh Lê Văn L.

Anh L, chị Ph thống nhất: Giao số tiền 55.000.000đ( năm mươi lăm triệu đồng). mang tên anh Lê Văn L cho cháu Lê Gia Hân khi nào cháu đủ 18 tuổi ( Do hiện nay cháu đang còn nhỏ nên anh L sẽ là người quản lý cho cháu).

[4]Về án phí: Nguyên đơn là chị Lê Thị Mỹ Ph phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm quy định của pháp luật. Bị đơn anh Lê Văn L phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51,56,57,58, 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5,6 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị Mỹ Ph được ly hôn anh Lê Văn L.

Về con: Công nhận cháu Lê Gia Hân, sinh ngày 27/5/2019 là con chung của anh Lê Văn L và chị Lê Thị Mỹ Ph. Giao cháu Lê Gia Hân cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Anh L có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ph mỗi tháng 2.000.000đ( Hai triệu đồng) thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 11/2020 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi về pháp luật. Anh L có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản: Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự theo biên bản thỏa thuận ngày 21/8/2020 của chị Lê Thị Mỹ Ph và anh Lê Văn L như sau:

01 sổ tiết kiệm tại chi nhánh Ngân hàng Agri bank chi nhánh Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Số tiền gửi: 55.000.000đ( năm mươi lăm triệu đồng). mang tên anh Lê Văn L.

Anh L, chị Ph thống nhất: Giao số tiền 55.000.000đ( năm mươi lăm triệu đồng). mang tên anh Lê Văn L cho cháu Lê Gia Hân khi nào cháu đủ 18 tuổi ( Do hiện nay cháu đang còn nhỏ nên anh L sẽ là người quản lý số tiền 55.000.000đ( năm mươi lăm triệu đồng cho cháu).

Về án phí: Chị Lê Thị Mỹ Ph phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0010041 ngày 25 tháng 08 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Chị Ph đã thi hành xong.

Anh Lê Văn L phải chịu 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều luật thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn chị Lê Thị Mỹ Ph, bị đơn anh Lê Văn L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 349/2020/HNGĐ-ST ngày 19/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:349/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về