Bản án 346/2019/HSPT ngày 21/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 346/2019/HSPT NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử Phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 278/2019/TLPT-HS ngày 15/7/2019 đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc T và Nguyễn Tấn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự số 103/2019/HSST ngày 04/06/2019 của Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh, Thành phố H.

Các Bị cáo có kháng cáo:

1/ Nguyễn Tấn P, sinh năm: 1977 tại: Thành phố H; thường trú: 1018D Phạm Thế H, Phường X, Quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N và bà Ngô Thị A (chết); hoàn cảnh gia đình: chưa vợ con;

Tiền án:

- Ngày 23/10/1996 bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”

- Ngày 16/6/1999 bị Tòa án nhân dân huyện Cần G, tỉnh Long An xử phạt 30 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

- Ngày 16/5/2003 bị Tòa án nhân dân Thành phố H xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Chống người thi hành công vụ”.

- Ngày 06/5/2010 bị Tòa án nhân dân quận 11 xử phạt 10 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/8/2018).

Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/01/2019 (có mặt) 2/ Nguyễn Ngọc T, sinh năm: 1986 tại: Thành phố H; Thường trú: E12/349 Ấp5, xã Phong P, huyện Bì, Thành phố H; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T và bà Đặng Thị Kim N; chưa vợ con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

Ngày 15/6/2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh TV xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” Ngày 23/5/2006, bị Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H xử phạt 01 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” (bị cáo phạm tội chưa đủ 18 tuổi).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/01/2019 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 09/01/2019, Nguyễn Tấn P và Nguyễn Ngọc T rủ nhau đi trộm cắp tài sản, T hẹn gặp P tại bến xe Quận T. Khi gặp P, T giao xe mô tô hiệu Wave biển số 93F3-2254 cho P điều khiển chở T ngồi sau chạy qua nhiều tuyến đường từ Quận 8 đến huyện BC tìm tài sản để trộm cắp. Khi P chở T đến trước địa chỉ D1/50, Ấp 4, xã Hưng Long, huyện BC thì cả hai phát hiện xe mô tô hiệu Honda Aiblade biển số 59N2-420.46 của ông Cao Văn P đang dựng trước nhà, không có người trông coi. P dừng xe lại đứng bên ngoài cảnh giới để T đi đến gần chiếc xe dùng đoản bẻ khóa xe mô tô của ông Phát rồi dẫn xe ra ngoài đường điều khiển về phòng trọ tại Ấp 5, xã Phong P cất giấu, sau đó cả hai tiếp tục đi tìm tài sản để trộm cắp.

Khoảng 20 giờ 30 Pt cùng ngày, P điều khiển xe mô tô biển số 93F3-2254 chở T đi đến trước nhà không số, cạnh nhà số E13/393, Ấp 5, xã Đa P, huyện BC thì cả hai phát hiện xe mô tô hiệu Wave biển số 62M1-242.37 của anh Lê Hồng P đang dựng phía trước nhà, không người trông coi. P dừng xe lại đứng bên ngoài cảnh giới để T đi đến gần chiếc xe, dùng đoản bẻ khóa xe lấy xe tẩu thoát.

Đến khoảng 15 giờ 30 Pt ngày 10/01/2019, T điều khiển xe biển số 62M1- 242.37 đến trước địa chỉ số 336 đường Nguyễn Duy, Phường C, Quận T để tìm người bán xe thì bị Đội cảnh sát hình sự Công an Quận T bắt.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 103/2019/HSST ngày 04/6/2019 của Tòa án nhân dân Huyện BC, Thành phố H đã quyết định:

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/01/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Bị cáo Nguyễn Ngọc T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/01/2019.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 18/6/2019, các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Tấn P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa Phúc thẩm, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố H trình bày:

Sau khi xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ buộc tội và các tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với các biên bản hoạt động điều tra. Các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của những người bị hại nên đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô biển số 59N2- 420.46 có trị giá 3.799.000 đồng của ông Cao Văn P và xe biển số 62M1-242.37 trị giá 8.895.000 đồng của ông Lê Hồng P. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Tấn P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tùvà xử phạt Bị cáo Nguyễn Ngọc T 02 (hai) năm tù về tội : «Trộm cắp tài sản » là có căn cứ, thỏa đáng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các Bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm Ngày 18/6/2019, các bị cáo Nguyễn Ngọc T, NguyễnTấn P làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo được làm trong thời hạn luật định là hợp lệ, cần chấp nhận để xem xét theo thủ tục Pthẩm.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa Phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định:

Các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của những người bị hại nên đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô biển số 59N2-420.46 có trị giá 3.799.000 đồng của ông Cao Văn Phát và xe máy biển số 62M1-242.37 trị giá 8.895.000 đồng của ông Lê Hồng Phong. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội: «Trộm cắp tài sản » theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

Đối với bị cáo Nguyễn Tấn P: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo xử bị cáo Nguyễn Tấn P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội : «Trộm cắp tài sản » theo Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là thỏa đáng, phù hợp với tính chất mức độ phạm tội, nhân thân và hậu quả do bị cáo gây ra nên không có cơ sở để xem xét giảm nhẹ hình phạt theo yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội thuộc T hợp “Tái phạm” theo quy định tại Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 là chưa chính xác, bởi lẽ: Ngày 15/6/2006, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và bồi thường phần trách nhiệm dân sự trong vụ án. Tại giấy xác nhận kết quả thi hành án của Cục Thi hành án Dân sự Tỉnh T xác định bị cáo Nguyễn Ngọc T không có điều kiện thi hành án phần dân sự của bản án nêu trên (Bút lục 49), do đó, áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội, trong T hợp này cần xem xét bị cáo đã xóa án tích đối với Bản án 42/2006/HSST ngày 15/6/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh. Như vậy, lần phạm tội này không thuộc T hợp tái phạm như cấp sơ thẩm đã nhận định. Tuy nhiên, do bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội nhiều lần nên không xem xét giảm án cho bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù về tội: «Trộm cắp tài sản » theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, thỏa đáng nên không có cơ sở để xem xét giảm nhẹ hình phạt theo yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Không Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Tấn P, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 103/2019/HSST ngày 04/6/2019 của Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh, Thành phố H.

Căn cứ Điểm g Khoản 2 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/01/2019.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: xử phạt Bị cáo Nguyễn Ngọc T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/01/2019.

Mỗi Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự Phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm về các vấn đề không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 346/2019/HSPT ngày 21/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:346/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về