TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 30 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 67/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Quỳnh V, sinh năm 1983; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Hộ gia đình BCH quân sự N, khối Y, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm T, xã H, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trung K, sinh năm 1982; nơi cư trú khối 4, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 3 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thị Quỳnh V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Quỳnh V và anh Nguyễn Trung K lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An ngày 30 tháng 12 năm 2008 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 75. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị V, anh K sống với nhau hạnh phúc cho đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không phù hợp, mỗi lẫn anh K uống rượu say về là chửi bới, xúc phạm chị V và đã nhiều lần đánh đập chị V. Mâu thuẫn trầm trọng nhất kể từ tháng 6 năm 2020, vợ chồng đã sống ly thân và cắt đứt mọi liên lạc cho đến nay. Nay chị V không còn tình cảm với anh K nữa nên yêu cầu được ly hôn.
Về con chung: Chị Võ Thị Quỳnh V và anh Nguyễn Trung K có 02 con chung là Nguyễn Phương V, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2011 và Nguyễn Đăng K, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2013. Cả hai con hiện đang ở với chị V. Nếu ly hôn, chị V có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi cả hai con và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị Võ Thị Quỳnh V không yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án,Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Trung K nhiều lần nhưng anh K không đến làm việc. Vì vậy, Tòa án không lấy được lời khai của anh K.
Tại các bản tự khai, hai cháu Nguyễn Phương V và Nguyễn Đăng K đều có nguyện vọng được ở với mẹ.
Tòa án đã xác minh về nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn giữa chị Võ Thị Quỳnh V và anh Nguyễn Trung K. Kết quả phản ánh: anh K uống rượn về hay chửi bới và có những lần đã đánh đập chị V. Hiện nay, vợ chồng chị V, anh K đã sống ly thân. Anh K đang sinh sống cùng bố mẹ đẻ tại khối 4, thị trấn Q, huyện N, còn chị V sinh sống tại thành phố V.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Võ Thị Quỳnh V được ly hôn anh Nguyễn Trung K. Về con chung: giao 02 cháu Nguyễn Phương V, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2011 và Nguyễn Đăng K, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2013 cho chị V trực tiếp nuôi. Chị V không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An nhận định:
[1] Nguyên đơn là chị Võ Thị Quỳnh V yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn; bị đơn là anh Nguyễn Trung K cư trú tại huyện N, tỉnh Nghệ An. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Chị Võ Thị Quỳnh V có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Trung K cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng anh K vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị V, anh K.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Võ Thị Quỳnh V và anh Nguyễn Trung K là hôn nhân hợp pháp, không vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Theo chị Võ Thị Quỳnh V trình bày, năm 2015 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do mỗi lần uống rượu say về, anh Nguyễn Trung K chửi bới, xúc phạm chị V và đã nhiều lần đánh đập chị V. Đến tháng 6 năm 2020, chị V và anh K đã sống ly thân cho đến nay. Nay chị V không còn tình cảm với anh K nữa nên yêu cầu được ly hôn. Kết quả xác minh về nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn giữa chị V và anh K cũng phản ánh đúng như chị V trình bày. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, mặc dù anh K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này cho thấy anh K đã không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân giữa anh K và chị V nữa.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Võ Thị Quỳnh V và anh Nguyễn Trung K đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có căn cứ cho chị V được ly hôn anh K theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Chị Võ Thị Quỳnh V và anh Nguyễn Trung K có 02 con chung là Nguyễn Phương V, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2011 và Nguyễn Đăng K, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2013. Hai cháu hiện đang ở với chị V và đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Chị V có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi cả hai con. Để đảm bảo quyền lợi cũng như sự phát triển về mọi mặt của các cháu, cần tiếp tục giao cháu V và cháu K cho chị V trực tiếp nuôi. Chị V không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Võ Thị Quỳnh V không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Chị Võ Thị Quỳnh V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Quỳnh V được ly hôn anh Nguyễn Trung K.
2. Về con chung: Chị Võ Thị Quỳnh V trực tiếp nuôi hai con chung là Nguyễn Phương V, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2011 và Nguyễn Đăng K, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2013. Không giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Nguyễn Trung K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu anh K lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Võ Thị Quỳnh V có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh K.
Chị Võ Thị Quỳnh V cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nguyễn Trung K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về án phí: Chị Võ Thị Quỳnh V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai số 0005159 ngày 15 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 30/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 34/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về