Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 05/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 05 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 470/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hồ Tắc P - sinh năm 1980.

Địa chỉ: tổ 12, ấp 3, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai. Địa chỉ liên hệ: ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Anh Lỷ A B - sinh năm 1980.

Địa chỉ: tổ 12, ấp 3, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

(Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/10/2020; bản tự khai ngày 23/11/2020 nguyên đơn là chị Hồ Tắc P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lỷ A B tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2008 nhưng đến năm 2010 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Sơn, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 22/3/2010. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh B không chăm lo làm ăn để phát triển kinh tế gia đình, thường xuyên đánh đập và hăm dọa đòi giết chị. Vì những điều này mà vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, bất hòa với nhau và đã sống ly thân từ tháng 11/2020 cho đến nay. Nay chị nhận thấy không còn tình cảm với anh B nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lỷ A B.

- Về con chung: Chị và anh Lỷ A B có 02 con chung là Lỷ Nhật P – sinh năm 19/11/2008 và Lỷ Nhật L – sinh ngày 21/10/2011. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu L và đồng ý giao con chung là cháu P cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con và chị cũng không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh Lỷ A B không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản bản lấy lời khai ngày 23/11/2020, bị đơn anh Lỷ A B trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Hồ Tắc P tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2008 nhưng đến năm 2010 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Thanh Sơn, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 22/3/2010. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẩn là do chị P khi đi làm về nhà thì ít quan tâm chăm sóc cho anh và các con. Vì những điều này mà vợ chồng cũng thường xuyên xảy ra cãi vả, bất hòa, trong những lần vợ chồng cãi vả thì anh có đánh chị P một lần và hai lần có hành vi dùng dao kề cổ hăm dọa chị P. Vì mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên vào tháng 11/2020 anh và chị P sống ly thân với nhau cho đến nay, trong thời gian sống ly thân anh và chị P không còn quan tâm chăm sóc gì cho nhau. Nay anh nhận thấy vẫn còn tình cảm yêu thương đối với chị P nên chị P yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh thì anh không đồng ý.

- Về con chung: Anh và chị Hồ Tắc P có 02 con chung là Lỷ Nhật P – sinh năm 19/11/2008 và Lỷ Nhật L – sinh ngày 21/10/2011. Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho anh và chị P ly hôn thì anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu P và đồng ý giao cháu L cho chị P nuôi dưỡng. Anh không cấp dưỡng nuôi con và cũng không yêu cầu chị P cấp dưỡng nôi con.

- Về tài sản chung: Anh và chị Hồ Tắc P tự thoả thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh và chị Hồ Tắc P không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; về quan hệ pháp luật, xác định tư cách pháp lý của đương sự, thẩm quyền thụ lý của Tòa án, thủ tục thu thập chứng cứ đúng quy định; quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ, thủ tục cấp tống đạt cho các đương sự đảm bảo theo quy định pháp luật. Các quyền nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo thực hiện. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án:

Tình trạng hôn nhân giữa chị Hồ Tắc P và anh Lỷ A B đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị P là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P.

Về con chung: Chị Hồ Tắc P và anh Lỷ A B có 02 con chung là Lỷ Nhật P – sinh năm 19/11/2008 và Lỷ Nhật L – sinh ngày 21/10/2011. Chị P yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Lỷ Nhật L và đồng ý giao con chung Lỷ Nhật P cho anh B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Cháu Long có nguyện vọng được ở với chị P, cháu Phụng có nguyện vọng được ở với anh B. Chị P anh B có đạo đức tốt nên đề nghị giao cháu L cho chị P, giao cháu P cho anh B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; tạm thời chị P và anh B không phải cấp dưỡng nuôi con do các bên không yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị Hồ Tắc P chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn anh Lỷ A B hiện cư trú tại ấp 3, xã T huyện Đ, tỉnh Đồng Nai nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Chị Hồ Tắc P yêu cầu khởi kiện ly hôn với anh Lỷ A B nên xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là "Ly hôn" theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về xác định tư cách đương sự: Chị Hồ Tắc P là nguyên đơn; anh Lỷ A B là bị đơn theo Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Hồ Tắc P có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Lỷ A B đã được triệu tập hợp lệ hai lần mà vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[5] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Chị P và anh B tự nguyện đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Thanh Sơn, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 22/3/2010 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Hồ Tắc P Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị P và anh B đều thừa nhận cuộc sống vợ chồng giữa chị P và anh B đã xảy ra những bất đồng, mâu thuẫn và hai người đã tự chấm dứt đời sống chung của vợ chồng từ tháng 11 năm 2020 đến nay. Tại Điều của 19 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình…có nghĩa vụ sống chung với nhau”. Tuy nhiên, kể từ khi chị P anh B không còn sống chung với nhau thì hai người cũng không quan tâm, chăm sóc, không thực hiện quyền nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Qua thu thập chứng cứ tại chính quyền địa phương thể hiện: Vợ chồng chị P và anh B thật sự có mâu thuẫn, vợ chồng đã không còn quan tâm chăm sóc nhau.

Qua xem xét lời trình bày của chị P, anh B và chứng cứ Tòa án thu thập được có đủ căn cứ xác định vợ chồng chị P anh B thật sự đã có mâu thuẫn, vợ chồng đã không còn quan tâm chăm sóc nhau, vi phạm quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy, cuộc sống vợ chồng giữa chị P anh B đã có mâu thuẫn, khả năng đoàn tụ không có nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P, giải quyết cho chị P được ly hôn với anh B theo Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[6] Về con chung: Chị Hồ Tắc P và anh Lỷ A B có 02 con chung là Lỷ Nhật P – sinh năm 19/11/2008 và Lỷ Nhật L – sinh ngày 21/10/2011. Chị P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lỷ Nhật L và đồng ý giao con chung Lỷ Nhật P cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu L có nguyện vọng được ở với chị P, cháu P có nguyện vọng được ở với anh B. Chị P, anh B đều có đạo đức tốt, các con chung trong thời gian được chị P anh B nuôi dưỡng cũng được chăm sóc tốt, phát triển bình thường. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, Hội đồng xét xử xét cần giao cháu Lỷ Nhật L cho chị P và giao cháu Lỷ Nhật P cho anh B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời chị P và anh B không phải cấp dưỡng nuôi con do các bên không yêu cầu.

Chị P, anh B có quyền đi lại thăm nom con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chưa thành niên, các bên được quyền thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Chị P chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân gia đình.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 9, 10, 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 19, 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84, 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1) Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hồ Tắc P.

Chị Hồ Tắc P được ly hôn với anh Lỷ A B.

2) Về con chung: Giao cháu Lỷ Nhật L – sinh ngày 21/10/2011 cho chị P và giao cháu Lỷ Nhật P – sinh năm 19/11/2008 cho anh B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời chị P và anh B không phải cấp dưỡng nuôi con do các bên không yêu cầu.

Chị P, anh B có quyền đi lại thăm nom con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chưa thành niên, các bên được quyền thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3) Về tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét, giải quyết.

4) Về án phí: Chị Hồ Tắc P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân gia đình được cấn trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị P đã nộp theo biên lai số 0005482 ngày 10/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ. Chị P đã nộp đủ án phí.

5) Về quyền kháng cáo: Chị Hồ Tắc P và anh Lỷ A B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 05/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về