Bản án 34/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 34/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 39/2020/TLST-HS ngày 06/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST-HS ngày 06/01/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị M, sinh năm 1974; Nơi đăng ký HKTT: Thôn P, xã P, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M đã chết và bà Nguyễn Thị H sinh năm 1949; Có chồng là Nguyễn Thế K đã chết và có 02 con, lớn sinh năm 1995 nhỏ sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/10/2019 đến ngày 16/10/2019 được thay thế bằng “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 40 phút ngày 07/10/2019 tại quán nước của bà Nguyễn Thị Q ở thôn P, xã P, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Thị M đã bị bắt quả tang về hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề ăn tiền cho Nguyễn Văn Q. Thu giữ 01 tờ bảng đề ghi ngày 07/10/2019 có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thị M; 01 bút bi mực xanh và 8.699.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 06/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn để xét xử bị cáo Nguyễn Thị M về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo M khai nhận: Căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày để bị cáo đánh bạc với hình thức bán số lô, số đề cho người chơi. Ngày 07/10/2019 bị cáo đã bán số lô, số đề cho Nguyễn Văn Q với số tiền 2.000.000 đồng. Bị cáo nhận tiền của Q ghi số lô trên vào bảng cáp đề thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo còn ghi số lô, số đề cho những người khác nhưng bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ với tổng số tiền là 6.699.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo dùng để đánh bạc được tổng hợp theo bảng cáp đề ngày 07/10/2019 là 8.699.000 đồng. Khi bị bắt chưa có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 07/10/2019.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M từ 10 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật hình sự. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền dùng để đánh bạc 8.699.000 đồng; Tịch thu tiêu hủy 01 bút bi mực xanh.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày 07/10/2019, Nguyễn Thị M đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề với Nguyễn Văn Q và các đối tượng không biết tên tuổi, địa chỉ với tổng số tiền là 8.699.000 đồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn đã truy tố.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng, lôi kéo nhiều người tham gia, gây mất trật tự trị an, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của Bộ luật hình sự và áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong khi lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo nên việc cho bị cáo được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đối chiếu với các quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo M đủ điều kiện được hưởng án treo. Vì vậy, không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, cải tạo tại địa phương cũng có tác dụng giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo M đánh bạc nhằm mục đích thu lợi nhuận đáng lẽ cần phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, tuy nhiên điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Số tiền dùng để đánh bạc 8.699.000 đồng cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. 01 bút bi mực xanh không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 tờ bảng đề ghi ngày 07/10/2019 có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thị M là chứng cứ nên được lưu vào hồ sơ vụ án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Liên quan trong vụ án có Nguyễn Văn Q là người đánh bạc với M bằng hình thức mua số lô, số đề ngày 07/10/2019. Lợi dụng sơ hở trong quá trình làm việc, Q đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng chưa có kết quả. Xác minh tại nơi cư trú như các đối tượng khai nhưng không có ai có nhân thân, lý lịch như Q khai. Vì vậy, cơ quan điều tra tiếp tục tục điều tra xác minh khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với những người có hành vi đánh lô, đề ăn tiền với M ngày 07/10/2019: M khai nhận không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với chị Nguyễn Thị Q là chủ quán nước, nơi M đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề, quá trình điều tra xác định, trong lúc chị Quế nhờ M trông hộ quán nước, M đã đánh bạc với các đối tượng, chị Quế không biết nên cơ quan điều tra không xử lý chị Quế là có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thị M cho UBND xã P, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền dùng để đánh bạc 8.699.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy 01 bút bi mực xanh.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2020).

Về án phí: Bị cáo M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:34/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về