Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 34/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 264/2020/TLST-HNGĐ ngày 22/7/2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/9/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1982. Địa chỉ: ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Trương Văn M, sinh năm 1981. Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

(Chị D và anh M đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 31/01/2020 và tờ tường trình ngày 30/7/2020 chị Nguyễn Thị D trình bày: Chị và anh M tự tìm hiểu và kết hôn với nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, theo quy định. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc và có sinh được 02 đứa con chung tên Trương Thị Ánh L, sinh ngày 28/02/2003 và Trương Anh H, sinh ngày 23/12/2005. Đến năm 2010 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh M thường xuyên rượu chè, cờ bạc không chăm lo cho gia đình, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh M vẫn không sửa đổi, dẫn đến vợ chồng ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, cả hai không hàn gắn lại tình cảm.

Nay chị thấy tình cảm giữa chị với anh M không còn và cũng không thể hàn gắn, chung sống lại với nhau được nên yêu cầu xin ly hôn với anh M.

Về con: Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là Trương Thị Ánh L, sinh ngày 28/02/2003 và Trương Anh H, sinh ngày 23/12/2005 (hiện đang sống với chị), không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

- Tại tờ tường trình ngày 10/8/2020 anh Trương Văn M trình bày: Thừa nhận anh và chị D tự tìm hiểu và kết hôn với nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, theo quy định. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống rất hạnh phúc và có sinh được 02 đứa con chung tên Trương Thị Ánh L, sinh ngày 28/02/2003 và Trương Anh H, sinh ngày 23/12/2005. Đến năm 2010 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, dẫn đến vợ chồng đã ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, cả hai không hàn gắn lại tình cảm.

Nay chị D yêu cầu xin ly hôn với anh, anh thống nhất ly hôn.

Về con chung: Anh thống nhất để chị D được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là Trương Thị Ánh L, sinh ngày 28/02/2003 và Trương Anh H, sinh ngày 23/12/2005 (hiện đang sống với gia đình chị D). Anh không cấp dưỡng nuôi con do chị D không yêu cầu.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với anh Trương Văn M. Xét thấy, người khởi kiện có quyền khởi kiện và đã thực hiện đúng về thủ tục khởi kiện theo quy định tại các Điều 186, 188, 189, 190 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại huyện Tam Nông là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị D khởi kiện yêu cầu được ly hôn, yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung đối với anh Trương Văn M, nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Xin ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung tranh chấp: Chị Nguyễn Thị D xin ly hôn đối với anh Trương Văn M và yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 2 con chung của chị D và anh M. Hội đồng xét xử nhận định:

[3.1] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D với anh Trương Văn M là hoàn toàn tự nguyện và thực tế đã xảy ra, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định, nhưng trong quá trình chung sống, vợ chồng anh, chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, cự cải nhau, dẫn đến chị D và anh M ly thân với nhau từ năm 2010 cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải, động viên cho vợ chồng chị hàn gắn, chung sống lại với nhau, nhưng anh M không có mặt theo thông báo của Tòa án. Chứng tỏ rằng, anh không quan tâm gì đến hôn nhân của anh, anh cũng không muốn hàn gắn, chung sống lại với nhau. Mặc khác, tại tờ tường trình ngày 10/8/2020, anh M cũng thống nhất ly hôn với chị D. Xét thấy, đời sống chung của anh, chị không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh M là hoàn toàn phù hợp và đúng theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị D và anh M có sinh được 02 con chung tên Trương Thị Ánh L, sinh ngày 28/02/2003 và Trương Anh H, sinh ngày 23/12/2005, hiện nay đang sống với chị D. Tại đơn khởi kiện ngày 31/01/2020 và tờ tường trình ngày 30/7/2020 chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung, chị không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ khi chị D và anh M ly thân cho đến nay, con chung của chị D với anh M do chị D nuôi dưỡng, trong quá trình nuôi dưỡng, chị D vẫn đảm bảo cho cháu L và cháu H có cuộc sống ổn định, phát triển tốt. Mặc khác, tại tờ tường trình ngày 10/8/2020, anh M cũng thống nhất giao cháu L và cháu H cho chị D nuôi dưỡng.

Hơn nữa, tại tờ tường trình ngày 30/7/2020 cháu L và cháu H có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với chị D, nghĩ nên tiếp tục giao cháu L và cháu H cho chị D nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Chị D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Anh M được quyền đến thăm nom và chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

 [3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình thu thập chứng cứ, tại tờ tường trình ngày 30/7/2020 chị D trình bày chị và anh M không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết và tại tờ tường trình ngày 10/8/2020 anh M cũng xác nhận anh và chị D không có tài sản chung và cũng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết đối với tài sản chung và nợ chung của chị D với anh M trong vụ án này, là phù hợp và có căn cứ chấp nhận.

Tại phiên tòa, chị D và anh M đều có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị D và anh M là phù hợp và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56 và Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:

1/ Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị D đối với anh Trương Văn M theo giấy chứng nhận kết hôn số 33, quyển số 03 ngày 14 tháng 5 năm 2020 của Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Cho chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M được ly hôn với nhau.

2/ Về con chung:

Tiếp tục giao con chung của chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M tên Trương Thị Ánh L, sinh ngày 28/02/2003 và Trương Anh H, sinh ngày 23/12/2005, cho chị D nuôi dưỡng.

Anh Trương Văn M không cấp dưỡng nuôi con, do chị D không yêu cầu.

Anh Trương Văn M được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

Người không trực tiếp nuôi con, lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị D đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số: BI/2019/0002534, ngày 22/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông.

Báo cho nguyên đơn và bị đơn biết, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:34/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về