Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 22/05/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 34/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 45/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 17/4/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị T, sinh năm 1985 (có đơn yêu cầu vắng mặt)

Bị đơn: Anh Điểu D, sinh năm 1984 (vắng mặt) Cùng trú tại: Tổ 2, ấp 23 Lớn, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại nội dung đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn chị T trình bày:

Chị T và anh Điểu D kết hôn năm 2005, đến năm 2010 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi nhau, anh D thường xuyên ăn nhậu, không lo làm ăn, không lo cho gia đình và nhiều lần đánh đập chị T. Nay vợ chồng đã không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống nên chị T đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Điểu D. Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là Thị Linh, sinh ngày 26/10/2005 và Thị Hồng, sinh ngày 25/6/2013 hiện tại con chung đang do chị T nuôi dưỡng nên khi ly hôn chị T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn: anh Điểu D đã được Tòa án nhân dân huyện H tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án mà không lý do. Anh D cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ, không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát phát biểu như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc thu thập chứng cứ, giải quyết vụ án từ khi, nhận đơn, thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử mở phiên toà. Phía nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Phía bị đơn được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng. Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Chị T xác định vợ chồng không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn, anh D vắng mặt suốt quá trình giải quyết của Tòa án, không có ý kiến về việc ly hôn nên coi như từ bỏ quyền và nghĩa vụ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện, cho chị T được ly hôn với anh Điểu D. Các vấn đề khác do đương sự chưa hoặc không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Án phí đương sự phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên Tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị T khởi kiện vụ án ly hôn đối với bị đơn anh Điểu D cư trú tại xã A, huyện H, nên đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Anh D được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do, phía nguyên đơn cũng yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T, anh D là đúng quy định của pháp luật.

[2] Nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh D tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước theo giấy chứng nhận kết hôn số 59 ngày 12/7/2010 nên đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Chị T xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc được 04 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cãi nhau và anh D có đánh đập chị T, chị T đã không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống. Qua xác minh tại địa phương cũng cho thấy trong thời gian chung sống giữa anh D và chị T có phát sinh mâu thuẫn, anh D nhiều lần đánh đập chị T. Như vậy, có cơ sở xác định yêu cầu xin ly hôn của chị T là có căn cứ và mục đích của hôn nhân của các bên đã không đạt được, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh D.

[3] Về con chung: Do anh D không quan tâm đến gia đình và không thường xuyên có ở nhà nên con chung thường do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Đối với con chung trên 07 tuổi có nguyện vọng được ở cùng mẹ khi cha mẹ ly hôn, chị T cũng có yêu cầu nuôi dưỡng cả 02 con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của các con chung, Hội đồng xét xử chấp nhận giao 02 con chung Thị L, sinh ngày 26/10/2005 và Thị H, sinh ngày 25/6/2013 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con trong vụ án nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định.

[6] Tại phiên Tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 207, 227, 238 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T được ly hôn với anh Điểu D.

[2] Về con chung: Giao con chung Thị L, sinh ngày 26/10/2005 và Thị H, sinh ngày 25/6/2013 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, khi người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T chưa yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[3] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án nên không xem xét giải quyết.

[4] Về nợ chung: Đương sự trình bày không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001753 ngày 11/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bình Phước.

[6] Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để được xét xử theo thủ tục phúc thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 22/05/2020 về ly hôn

Số hiệu:34/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về