Bản án 34/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TY, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 06/9/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn C – Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 07/7/1985, tại huyện TY, tỉnh Yên Bái; ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn 11 TV, xã QM, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Thanh H (Lê Văn H) sinh năm 1952 và bà Lê Thị T, sinh năm 1950, đều trú tại Thôn 11 TV, xã QM, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Vợ Hà Thị Q đã ly hôn; Con có 02 con, con lớn sinh năm 2009; con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án: 01, ngày 28/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện TY xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/6/2019 tại Trại tạm giam công an tỉnh Yên Bái. Có mặt.

- Người bị hại: Anh Trần Văn D– sinh năm 1965.

Trú tại: Thôn QT, xã YC, huyện TY, tỉnh Yên Bái. “Vắng mặt”

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Tiến Đ – sinh năm 1995.

Trú tại: Thôn TC, xã QM, huyện TY, tỉnh Yên Bái “ Có mặt”.

-Người làm chứng: Ông Lê Thanh H (Lê Văn H)– sinh năm 1952.

Trú tại: Thôn 11TV, xã QM, huyện TY, tỉnh Yên Bái.“ Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 9 giờ ngày 20/2/2019, Lê Văn C trú tại Thôn TV, xã QM, huyện TY, tỉnh Yên Bái, một mình điều khiển xe mô tô BKS 21F1 – 040.xx đi đến nhà anh Trần Văn D, trú tại Thôn QT, xã YC, huyện TY, tỉnh Yên Bái để trộm cắp tài sản. Đến nơi C dựng xe ở ngoài cổng rồi đi bộ vào sân, thấy cửa nhà anh D khóa ngoài, C đi vào, nhìn qua ô kính cửa chính ngôi nhà, thấy trong nhà có một chiếc âm ly để trên tủ kê tại phòng khách, quan sát thấy ô kính của cánh cửa bên trái có một ô bị nứt vỡ ngang tấm kính và ở các ô cửa kính đều có những mảnh gỗ nẹp, C dùng tay cậy mảnh gỗ nẹp ra rồi rút các mảnh kính bị vỡ xuống nền nhà và chui vào nhà qua ô kính đã tháo ra, C vào nhà lấy chiếc âm ly nhãn hiệu JARGUAR PA – 506A mang ra chỗ ô cửa kính đã chui vào để ra ngoài, sau đó quay vào nhà lấy một bao tải màu xanh rồi chui qua ô cửa kính ra ngoài cho chiếc âm ly vào bao tải mang ra xe. C điều khiển xe mô tô chở chiếc âm ly đến nhà Vũ Tiến Đ ở tại Thôn TC, xã QM, huyện TY bán cho Đ được 500.000đồng đã mua ma túy sử dụng và chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 18/6/2019 D đến quán nhà Đ chơi và phát hiện chiếc âm ly có đặc điểm giống âm ly của nhà bị mất trộm ngày 20/2/2019, anh D đã trình báo sự việc lên Công an huyện TY để điều tra làm rõ. Tại cơ quan điều tra C đã khai nhận hành vi trộm cắp chiếc âm ly của D. Tại bản kết luận định giá số 13/KL-HĐĐG ngày 24/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TY kết luận:

- 01 (một) chiếc âm ly màu đen, nhãn hiệu JARGUARPA – 506A đã cũ vẫn đang hoạt động, tại thời điểm bị xâm hại ngày 20/02/2019, đã khấu hao 10%, giá trị còn lại là 3.000.000 đồng x 90% = 2.700.000 đồng (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Ngoài hành vi trộm cắp tài sản nêu trên, ngày 20/02/2019 C đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện TY đã xử phạt hành chính đối với C theo quy định của pháp luật.

Tại cáo trạng số 30/CT-VKSTY ngày 05/9/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn C đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi của bản thân như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TY truy tố là đúng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Về hình phạt áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm h;s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/6/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Người bị hại anh Trần Văn D vắng mặt tại phiên tòa, nhưng lời khai bị hại đã nhận lại đầy đủ tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm, do đó không xem xét.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Vũ Tiến Đ không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã mua chiếc âm ly, nên không xem xét.

Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc âm ly nhãn hiệu JARGUAR PA – 506A đã được thu hồi trả lại cho anh D.

Đi với 01 chiếc bao tải màu xanh do anh Đ đã đốt khi dọn nhà không thu hồi được.

Đi với chiếc xe mô tô BKS 21F1- 040.xx mà Lê Văn C dùng làm phương tiện phạm tội, quá trình điều tra làm rõ là xe của ông Lê Thanh H bố đẻ của bị cáo, khi bị cáo lấy xe đi ông Hải không biết, do đó cơ quan Công an không đặt ra xử lý đối với chiếc xe mô tô.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh D, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đ không yêu cầu nên không đặt ra.

Về án phí và quyền kháng cáo: Theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện TY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp với biên bản hiện trường, phù hợp với các tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 9 giờ ngày 20/02/2019 Lê Văn C đến nhà anh Trần Văn D thuộc thôn QT, xã YC, huyện TY. Lén lút chiếm đoạt của D 01 chiếc âm ly nhãn hiệu JARGUAR PA-506A. Tài sản bị cáo chiếm đoạt được có giá trị là 2.700.000 đồng (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện TY truy tố bị cáo Lê Văn C ra xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi và nhân thân của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự tại địa phương, thể hiện tính coi thường pháp luật của bị cáo. Động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo là nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 02/01/2014 bị Công an huyện TY xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và ngày 05/9/2016 bị Công an thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái xử phạt hành chính về hành vi Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác, tuy nhiên tính đến ngày phạm tội thì bị cáo được coi là chưa bị xử phạt hành chính. Có một tiền án. Tại bản án số 24/2017/HSST, ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện TY xử phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” ngày 26/9/2018 chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương, không lấy đó làm bài học ăn năn hối cải, trở thành công dân tốt, mà ngày 02/4/2019 thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bản thân có bố và mẹ là người có công với nước được tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, trên cơ sở xem xét toàn diện tính chất, mức độ, hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Hi đồng xét xử xét thấy. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo là người không có việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về các đối tượng khác:

Đi với Vũ Tiến Đ quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã làm rõ, không có căn cứ để chứng minh Đ là đồng phạm trong vụ án, nên không bị xử lý trong cùng vụ án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là đúng pháp luật.

Đi với người đàn ông theo lời khai nhận của bị cáo, ngày 20/02/2019 đã bán ma túy cho bị cáo ở khu vực xã YC, huyện TY, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông đó, nên không có căn cứ để xử lý.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại anh D không yêu cầu bồi thường gì thêm, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đ không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã mua chiếc âm ly, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 chiếc âm ly nhãn hiệu JARGUAR PA-506A. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp ông Trần Văn D là phù hợp.

- Đối với 01 chiếc bao tải màu xanh, do anh Đ đã đốt khi dọn nhà nên không thu hồi được.

- Đối với 01 xe mô tô BKS 21F1- 040.xx là tài sản hợp pháp của ông Hải nên không xử lý là phù hợp.

[8] Về án phí:

Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt :

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn C 01(Một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/6/2019.

3. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Lê Văn C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại Trần Văn D vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Vũ Tiến Đ có quyền kháng cáo bản án, quyết định những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trấn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về