Bản án 34/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 04 năm 2019 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2019/HSST, ngày 04 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/QĐXXST-HS ngày 29/3/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Ngọc H - Tên gọi khác: không - Giới tính: Nam; Sinh ngày 19/9/1983, tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 8, khu Hai Giếng 2, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: Lớp 2/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên bố: Vũ Thế Sin; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị T; Vợ: Nguyễn Thị Thu Lành – Sinh năm 1983,Trú tại: Trung Quốc (Đi xuất khẩu lao động); Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Năm 2011 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện Vũ Oai, huyện Hoành Bồ; ngày 20/7/2012 về địa phương.

Bị cáo bị bắt quả tang 01/02/2018, tạm giam đến ngày 12/02/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Tháng 3/2018 bỏ trốn khỏi nơi cư trú.

Ngày 10/01/2019 ra đầu thú, hiện tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị T – sinh năm 1961; địa chỉ: Tổ 8, khu Hai Giếng 2, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

* Những người làm chứng: Ông Đặng Hồng Đức, sinh năm 1966; Địa chỉ: Tổ 4, khu Đập Nước 2, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh;

Ông Trần Quang Hảo, sinh năm 1966, Địa chỉ: Tổ 5, khu Đập Nước 2, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 00 phút ngày 01/02/2018, tại khu vực tổ 4, khu Đập Nước 2, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, Công an phường Cẩm Thủy bắt quả tang Vũ Ngọc H có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo khoác của Hoàn 02 (hai) gói giấy chứa chất bột màu trắng, 01 (một) điện thoại Nokia, màu đen, lắp sim số 01692432166 và 01 xe máy điện biển số 14MD3-011.60.

Tại bản kết luận giám định số 191/GĐMT ngày 03/02/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất bột màu trắng thu của Vũ Ngọc H là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng 0,176 gam. Hoàn lại 0,08 gam.

Quá trình điều tra, Vũ Ngọc H khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 01/02/2018, Hoàn đi xe máy điện biển số 14MD3-011.60 (mượn của mẹ là bà Nguyễn Thị T) đến khu vực rạp hát ngoài trời thuộc phường Cẩm Trung thành phố Cẩm Phả tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, Hoàn đã gặp và mua của một người thanh niên không quen biết 02 gói ma túy với giá 300.000 đồng. Sau đó, Hoàn điều khiển xe máy điện ra hiệu thuốc mua xi lanh để sử dụng ma túy, thì bị Công an bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo Vũ Ngọc H khai nhận bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2008, chỉ sử dụng ma túy loại Heroine. Bị cáo đã đi cai nghiện bắt buộc từ năm 2011, đến năm 2012 thì về địa phương và tái nghiện sử dụng ma túy. Ngày 01/02/2019, khoảng 16 giờ, bị cáo đã mượn xe đạp điện của mẹ và đi đến khu vực rạp hát ngoài trời thuộc phường Cẩm Trung thành phố Cẩm Phả mua của một người không quen biết 02 gói ma túy loại Heroine với giá 300.000đồng. Sau đó bị cáo đi về nhà, vì không có xi lanh sử ma túy, bị cáo lại tiếp tục đi ra hiệu thuốc để mua xi lanh, lúc này con trai bị cáo là Vũ Ngọc Long đòi đi theo, bị cáo cho con đi cùng, khi bị cáo đi đến khu vực thuộc tổ 4 khu Đập Nước 2 phường Cẩm Thủy thì bị các anh Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ 02 gói ma túy bị cáo cất giấu trong túi áo khoác bị cáo đang mặc, ngoài ra còn thu giữ một điện thoại di động và chiếc xe đạp điện như cáo trạng mô tả. Mục đích bị cáo mua 02 gói ma túy là để sử dụng cho bản thân, chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, nguồn tiền mua ma túy là do bị cáo lao động mà có. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài nội dung trên, bị cáo Vũ Ngọc H khai nhận, sau khi bị bắt do bị cáo bị bệnh nặng, được tại ngoại, do nhận thức kém bị cáo đã trốn khỏi địa phương để đi chữa bệnh, khi biết mình bị truy nã bị cáo đã ra đầu thú, trong thời gian bỏ trốn khỏi địa phương bị cáo không vi phạm pháp luật.

Người làm chứng là ông Đặng Hồng Đức và ông Trần Quang Hảo trong quá trình điều tra đều có lời khai thể hiện nội dung, khoảng 17 giờ ngày 01/02/2018 tại khu vực thuộc tổ 4 khu Đập Nước 2 phường Cẩm Thủy, các ông đã chứng kiến Công an kiểm tra và bắt quả tang Vũ Ngọc H, Công an đã thu giữ trong túi áo khoác của Hoàn 02 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, Hoàn khai là ma túy Heroine Hoàn vừa mua về để sử dụng. Công an còn thu giữ của Hoàn 01 chiếc xe đạp điện, 01 chiếc điện thoại loại Nokia, ngoài ra không thu giữ thêm tài sản, đồ vật nào khác.(BL 60-62; 64-67)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xác nhận chiếc xe máy điện biển số 14MD3-011.60 là của bà, bà không biết Hoàn mược xe để đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà, bà không có yêu cầu gì khác.(BL 82)

Tài liệu có trong hồ sơ ngoài các kết luận giám định ma túy (BL 48) còn có các tài liệu khác: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 38-39); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 44;45) có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo, phù hợp lời khai của người làm chứng.

Tại bản cáo trạng số 25/KSĐT-HS ngày 01/03/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Vũ Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội bị cáo với đề nghị kết tội bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố; đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ; xử phạt bị cáo từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt khi ra đầu thú, ngày 10/01/2019, nhưng được trừ đi những ngày bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 01/02/2018 đến ngày 12/02/2018; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và có quan điểm xử lý vật chứng theo quy định.

Tại phần tranh luận, bị cáo Vũ Ngọc H không tranh luận;

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vũ Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội, nội dung lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người làm chứng, phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Kết luận giám định ma túy.

Từ các căn cứ này Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 00 phút ngày 01/02/2018, tại khu vực tổ 4, khu Đập Nước 2, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Vũ Ngọc H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,176 gam (không phảy một bảy sáu gam) ma túy, loại Heroine, với mục đích để sử dụng, thì bị Công an bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, tội danh có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, nội dung đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Pháp luật hình sự xử lý nghiêm khắc đối với các tội phạm về ma túy, để nhằm mục đích ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy trong xã hội. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý đối với xã hội và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhưng do lối sống không có trách nhiệm với bản thân và xã hội bị cáo vẫn cố tình mua ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã tiếp tay cho người bán ma túy, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương, gây mất trật tự trị an xã hội, vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo tỏ thái độ ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật. Bị cáo ra đầu thú trong trường hợp đã bị truy nã, Hội đồng xét xử vẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng ở mức độ nhất định.

Bị cáo đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính bắt buộc đi cai nghiện tập trung 18 tháng, năm 2012 chấp hành xong về địa phương, tính đến thời điểm bị cáo phạm tội thì biện pháp xử lý hành chính này đối với bị cáo chỉ xét là nhân thân.

[5] Về vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 (một) điện thoại Nokia, màu đen thu giữ của bị cáo, nhưng xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo; 01 xe máy điện biển số 14MD3-011.60 cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp nên không đề cập giải quyết.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Vũ Ngọc H do không có thông tin cụ thể về nhân thân lai lịch, nên không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 ; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Ngọc H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 10/01/2019 (ngày bị cáo ra đầu thú), nhưng được trừ đi những ngày bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 01/02/2018 đến ngày 12/02/2018.

Áp dụng điểm a khoản 2 ; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1; khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 191/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh;

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, model: RM-1134, số IMEI: 357284086513164 kèm 01 pin, kèm 01 sim. (Hiện trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 53/BB-THA ngày 12/3/2019 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.)

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Vũ Ngọc H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, có mặt bà Nguyễn Thị T là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; báo cho bị cáo và bà Nguyễn Thị T biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về