Bản án 34/2019/HSST ngày 08/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 34/2019/HSST NGÀY 08/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2019/HSST ngày 11 tháng 4 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Đặng Văn Đ, sinh năm 1982, tại Giao N, Giao Thủy, Nam Định; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm Duyên Trường, xã Gi, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn T và bà Đỗ Thị B; Có vợ là Đỗ Thị H; có 02 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 10/3/2016, bị TAND huyện Giao Thủy xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 10/6/2018. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14-01-2019 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: bà Đặng Thị Anh Th – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nam Định - Người làm chứng:

+ Ông Phạm Trọng L, sinh năm 1957

Địa chỉ: xóm 8, xã H, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định

Tại phiên tòa: Bà Th có mặt; Vắng mặt ông L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12giờ ngày 14-01-2019, tổ tuần tra Công an xã Hoành Sơn phối hợp cùng Công an huyện Giao Thủy làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực xóm 8, xã H, huyện Giao Thủy phát hiện Đặng Văn Đ đi xe máy BKS: 29M3-5135 có biểu hiện nghi vấn (cất giấu trái phép chất ma túy). Tổ tuần tra yêu cầu Đặng Văn Đ dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Đặng Văn Đ tự giác giao nộp cho tổ tuần tra 01 gói nhỏ gói bằng giấy báo bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (Đoán khai là gói heroine vừa mua để sử dụng), được niêm phong ký hiệu M1. Ngoài ra, tổ tuần tra còn thu giữ của Đặng Văn Đ 01 xe máy BKS: 29M3-5135. Tổ tuần tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 92/GĐKTHS ngày 16/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01(một) gói nhỏ gói bằng giấy báo được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: heroine. Khối lượng mẫu M1: 0,162 gam”.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy Đặng Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 10/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố Đặng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên sau khi xem xét, phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điển h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Đặng Văn Đ từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, là người nghiện đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroin hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Gia đình bị có kinh tế khó khăn, con bị cáo còn nhỏ, nhận thức của bị cáo còn hạn chế, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với mức thấp nhất.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, trình bày bản thân nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Đặng Văn Đ đã có hành vi cất giấu trái phép 01 gói chất bột màu trắng bị Công an thu giữ ký hiệu M1, bị cáo khai là Heroin để sử dụng cho bản thân. Tại bản kết luận giám định số 92/GĐKTHS ngày 16/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 (một) gói nhỏ gói bằng giấy báo được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: heroine. Khối lượng mẫu M1: 0,162 gam”. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo được địa phương xác nhận, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian nhất định đủ để khi trở về cộng đồng là công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Số heroin vật chứng của vụ án được hoàn trả sau giám định, áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu cho tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Đặng Văn Đ 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày giam giữ 14-01-2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu huỷ toàn bộ số heroin mẫu vật hoàn trả sau giám định (được ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 10-4-2019 giữa Công an huyện Giao Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đặng Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HSST ngày 08/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về