Bản án 34/2019/HNGĐ-PT ngày 11/09/2019 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 34/2019/HNGĐ-PT NGÀY 11/09/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 11 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 35/2019/TLPT-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 về việc“Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung” Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 135/2019/HNGĐ-ST ngày 30/07/2019 của Tòa án nhân dân huyện ĐD bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 35/2019/QĐ-PT ngày 13 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Ý Ng, sinh năm 1992. Cư trú tại: Ấp Bình B, xã Vĩnh Phú T, huyện Phước L, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

- Bị đơn: Anh Võ Chí Nh, sinh năm 1991. Cư trú tại: Ấp Tân H, xã Tân Đ, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Người kháng cáo: Anh Võ Chí Nh – Bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Chị Đặng Thị Ý Ng trình bày:

Chị và anh Võ Chí Nh kết hôn vào ngày 08/3/2016 và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Tân Đ, huyện ĐD. Khi về chung sống được 03 năm thì thì xảy ra mâu thuẫn về tiền bạc và anh Nh có hành vi đe dọa, đánh đập đối với chị. Quá trình chung sống có 01 người con chung tên Võ Diễm Tr, sinh ngày 05/10/2016. Vào tháng 4 – 5/2018 chị cùng cháu Diễm Tr về gia đình của chị sinh sống đến tháng 12/2018 thì anh Nh cùng gia đình lên rước về. Đến ngày 06/5/2019 tiếp tục xảy ra cự cãi, anh Nh nắm đầu đe dọa và khi ẵm Diễm Tr theo thì gia đình anh Nh ngăn cản, do áp lực nên chị đã buộc phải giao Diễm Tr lại cho cha của anh Nh và chị có báo chính quyền địa phương đến nhưng không có lập biên bản và đến Ủy ban nhân dân xã Tân Đức trình báo sự việc; sau đó về gia đình của chị sinh sống cho đến nay. Trong thời gian này, nhiều lần chị liên hệ về gặp Diễm Tr nhưng đều bị gia đình anh Nh ngăn cản, muốn về thăm con nhưng sợ bị đánh đập nên không dám về. Với nguyên nhân trên, chị xác định không thể hàn gắn chung sống trở lại nên yêu cầu ly hôn với anh Nh.

Đi với Diễm Tr là con gái, hiện nay cháu còn nhỏ chưa đủ 36 tháng tuổi nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ, việc giao con lại là ngoài ý muốn và do bị áp lực từ phía gia đình anh Nh. Hiện nay chị có đủ điều kiệm chăm sóc nuôi dưỡng vì chị đã được cha, mẹ cho 14 công đất có thu nhập ổn định, nhà gần trường học đảm bảo cho việc học tập sau này. Qua thời gian chung sống thì anh Nh và gia đình có tính bạo lực, anh Nh đi làm không có điều kiện nên gửi cho bà nội chăm sóc, theo chị được biết thì mẹ anh Nh đã ẵm theo Diễm Tr đi đánh bài. Do vậy, khi sống trong môi trường này cháu sẽ bị ảnh hưởng nặng nề về tâm lý, không đảm bảo sự phát triển về thể chất và tinh thần nên chị yêu cầu anh Nh giao lại cho chị nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con.

Về nữ trang có 12 chỉ vàng 24k nhưng đã bán chi xài trong thời gian nuôi con nên không còn và anh Nh không yêu cầu gì nên chị không có ý kiến. Về các vấn đề khác: Không có.

* Anh Võ Chí Nh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản và các vấn đề khác như chị Ng trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do nghi ngờ chị Ng sử dụng số vàng cho trong ngày cưới, anh nhiều lần yêu cầu đưa số vàng lại để xác định còn hay không nhưng chị Ng đều lảng tránh và nói gửi ở gia đình. Vào tháng 4 – 5/2018 khi về đám ở gia đình chị Ng thì xảy ra cự cãi, chị Ng không về cùng. Sau đó, anh và gia đình nhiều lần liên hệ rước về nhưng đến tháng 12/2018 anh tiếp tục liên hệ, trong khi gia đình chị Ng cương quyết ngăn cản, phản đối nhưng chị Ng vẫn cùng Diễm Tr về chung sống trở lại với anh đến ngày 04/5/2019 anh tiếp tục yêu cầu chị Ng đem vàng ra thì chị Ng thừa nhận bán 05 chỉ nuôi con, còn lại thì gửi ở gia đình nên anh yêu cầu lấy về, khi đi về thì chị Ng cũng không nói gì và đến ngày 06/5/2019 gia đình chị Ng xuống thì xảy ra cự cãi, địa phương đến ghi nhận nhưng không lập biên bản và chị Ng bỏ đi cho đến nay. Do chị Ng cương quyết nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Ng.

Về con: Anh không đồng ý giao Diễm Tr cho chị Ng vì hiện nay anh có đủ điều kiện nuôi dưỡng, là con trai duy nhất, trong gia đình có 15 công đất, thu nhập ổn định khoảng 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng/tháng, nhà gần trường học từ mẫu giáo đến cấp 1 và cấp 2; ngoài ra anh đang hùn vốn nuôi tôm giống với người khác có thu nhập khoảng 50.000.000 đồng/tháng; anh không ngăn cản việc thăm nom hoặc liên hệ điện thoại đối với Diễm Tr. Về số nữ trang là 12 chỉ vàng 24k anh giữ nguyên cho chị Ng hưởng và không yêu cầu gì.

Tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số:135/2019/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện ĐD quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Ý Ng. Cho chị Ng được ly hôn với anh Võ Chí Nh; Về con chung: Giao Võ Diễm Tr, sinh ngày 05/10/2016 cho chị Ng nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra. Anh Nh đang trực tiếp nuôi Diễm Tr có nghĩa vụ giao lại cho chị Ng nuôi và anh Nh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 09/7/2019, anh Võ Chí Nh có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận cho được nuôi cháu Võ Diễm Tr.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Anh Nh giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; các đương sự chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của anh Võ Chí Nh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét kháng cáo của anh Võ Chí Nh yêu cầu được nuôi cháu Võ Diễm Tr, Hội đồng xét xử thấy rằng: Anh Võ Chí Nh và chị Đặng Thị Ý Ng có 01 người con chung tên Võ Diễm Tr, sinh ngày 05/10/2016. Cả anh Nh, chị Ng đều có nguyện vọng nuôi, không thỏa thuận được việc nuôi con chung. Theo lời trình bày và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thấy rằng điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và đảm bảo cuộc song cho cháu Tr thì cả anh Nh và chị Ng có đủ điều kiện và ngang nhau. Tuy nhiên, theo quy định của khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định cụ thể “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con…”. Tính đến thời điểm hiện tại cháu Tr mới được hơn 34 tháng tuổi và là con giái, rất cần sự chăm sóc của người mẹ để đảm bảo sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý bình thường cho cháu Tr. Anh Nh là cha của cháu Tr, vẫn có quyền được thăm nom mà không ai được pháp ngăn cản. Do đó, cấp sơ thẩm giao cho chị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Nh cho rằng chị Ng không đủ điều kiện nuôi con, không có trách nhiệm đối với con nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Võ Chí Nh, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

[2]. Án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Anh Nh phải chịu theo quy định pháp luật.

[3]. Những quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không giải quyết; có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Không chấp nhận kháng cáo của anh Võ Chí Nh.

Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 135/2019/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Ý Ng. Cho chị Ng được ly hôn với anh Võ Chí Nh.

2. Về con chung: Giao Võ Diễm Tr, sinh ngày 05/10/2016 cho chị Ng nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra. Anh Nh đang trực tiếp nuôi Diễm Tr có nghĩa vụ giao lại cho chị Ng nuôi và anh Nh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Ng phải chịu trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009385 ngày 09 tháng 5 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐD (đã nộp xong).

- Án phí dân sự phúc thẩm: Anh Nh phải chịu 300.000 đồng, ngày 10/7/2019 anh Nh có dự nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0009614 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐD được chuyển thu án phí.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HNGĐ-PT ngày 11/09/2019 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:34/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về