Bản án 34/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 34/2018/HS-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018, đối với bị cáo:

Bùi Thanh B, sinh năm 1980; nơi cư trú: Xóm 6, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao dộng tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Đ và bà Nguyễn Thị M; có vợ là Kim Thị T và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam giữ từ ngày 06/3/2018 đến nay, có mặt.

- Bị hại:

+ Chị Trần Thị T, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xóm 4, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

+ Chị Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1988; nơi cư trú: Xóm 8, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

+ Chị Trần Thị H, sinh năm 1993; nơi cư trú: Khu phố II, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt. 

+ Chị Chu Thị Mai L, sinh năm 1990; nơi cư trú: T, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Kim Thị T, sinh năm 1993; nơi cư trú: M, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, có mặt.

+ Anh Bùi Ngọc H, sinh năm 1978; nơi cư trú: M, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Trần Danh K, sinh năm 1989; nơi cư trú: Siêu thị L, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

+ Anh Ngô Thanh T, sinh năm 1992; nơi cư trú: Xóm 5, xã B, huyện B, tỉnhHà Nam, vắng mặt. 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Với mục đích trộm cắp tài sản nên khoảng 21 giờ ngày 06/3/2018, Bùi Thanh B điều khiển xe môtô mang biển kiểm soát 90H9-8004 đến siêu thị L ở thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam tìm xem ai sơ hở thì trộm cắp tài sản của người đó. Đến khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày, lợi dụng việc các nhân viên siêu thị L đang kiểm kê lại hàng hoá đã bán trong ngày, Bùi Thanh B lén lút đi vào khu vực để xe của nhân viên siêu thị L dùng chiếc nhíp mang theo từ trước để mở cốp chiếc xe môtô Air Blade biển kiểm soát 90B1-937.17 của chị Chu Thị Mai L (nhân viên siêu thị L) tìm tài sản trộm cắp nhưng không có tài sản gì thì bị bảo vệ siêu thị L bắt quả tang.

Khi bắt, thu giữ của Bùi Thanh B 01 chiếc nhíp bằng kim loại màu trắng đã bị bẻ gãy một bên; 01 xe môtô mang biển kiểm soát 90H9-8004 trong cốp xe có số tiền 3.010.000 đồng, 01 ví nữ bên trong có số tiền 403.200 đồng, 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe và 01 thẻ ATM cùng mang tên Trần Thị H, 01 thẻ ATM cùng mang tên Trần Thị Hồng V.

Kết quả điều tra còn xác định: Bằng thủ đoạn tương tự, khoảng 21 giờ ngày 05/3/2018, tại khu vực để xe của nhân viên siêu thị L, Bùi Thanh B đã lén lút dùng nhíp mang theo mở cốp chiếc xe môtô biển kiểm soát 90H6-5921 của chị Phạm Thị Thanh T trộm cắp số tiền 1.100.000 đồng; mở cốp chiếc xe 90B1-84.925 của chị Trần Thị T trộm cắp số tiền 650.000 đồng; mở cốp chiếc xe 29S1-03.600 của chị Trần Thị H trộm cắp số tiền 2.300.000 đồng và 01 ví nữ bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe và 01 thẻ ATM cùng mang tên Trần Thị H, 01 thẻ ATM cùng mang tên Trần Thị Hồng V.

Khám xét khẩn cấp nhà Bùi Thanh B thu giữ 01 ví giả da màu nâu đen; 01 giấy phép lái xe mang tên Chu Thị Thuý H; 09 chiếc nhíp bằng kim loại và số tiền 46.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 1331/C54(P3) ngày 13/3/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mặt trong phần vỏ nhựa và phần công tắc gắn với vỏ vỏ nhựa (khe) công tắc mở cốp xe và hộc bình xăng của xe môtô biển kiểm soát 90H6-5921, xe môtô biển kiểm soát 90B1-84.925, xe môtô Air Blade biển kiểm soát 90B1-937.17 có dấu vết trượt xước nhựa do vật cứng có cạnh tạo ra. Không xác định được các dấu vết này có phải do chiếc nhíp bằng kim loại thu của Bùi Thanh B tạo ra hay không.

Tiến hành thực nghiệm điều tra xác định được Bùi Thanh B có khả năng dùng nhíp kim loại mở cốp xe môtô (dạng xe tay ga) có công tắc mở cốp xe liền với ổ khoá điện của xe.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Bùi Thanh B đã nhờ gia đình bồi thường cho chị Trần Thị T, chị Phạm Thị Thanh T và chị Trần Thị H; những người bị hại đã nhận tiền bồi thường, không có ý kiến gì khác và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Chị Chu Thị Mai L không yêu cầu bồi thường và không có ý kiến gì khác.

Công an huyện Lý Nhân đã trả lại: Chị Chu Thị Mai L chiếc xe môtô Air Blade biển kiểm soát 90B1-937.17; chị Phạm Thị Thanh T chiếc xe môtô biển kiểm soát 90H6-5921; chị Trần Thị T chiếc xe 90B1-84.925; chị Trần Thị H chiếc xe 29S1-03.600 và 01 ví nữ bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe và 01 thẻ ATM cùng mang tên Trần Thị H, 01 thẻ ATM cùng mang tên Trần Thị Hồng V.

Đối với chiếc xe môtô mang biển kiểm soát 90H9-8004 là của anh Bùi Ngọc H (anh trai ruột bị cáo), anh H không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe này vào mục đích phạm tội nên Công an huyện Lý Nhân đã không xử lý anh H và trả lại anh H chiếc xe môtô mang biển kiểm soát 90H9-8004. Đối với 09 chiếc nhíp bằng kim loại và số tiền 46.000 đồng là của chị Kim Thị T (vợ bị cáo) Công an huyện Lý Nhân đã trả lại chị T các tài sản này.

Đối với 01 ví giả da màu nâu đen và 01 giấy phép lái xe mang tên Chu Thị Thuý H xác định được đây là vật chứng của vụ án trộm cắp tài sản xảy ra năm 2015 tại thôn D, T, Ư, Thành phố Hà Nội. Công an huyện Lý Nhân đã chuyển các vật chứng này cho Công an huyện Ứng Hoà theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKSLN ngày 16/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Bùi Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên toà, Kiểm sát viên trong phần tranh luận giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Bùi Thanh B từ 07 tháng đến 09 tháng tù.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thanh B khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân đã truy tố và nhất trí với quan điểm luận tội của kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung: Lời khai của bị cáo Bùi Thanh B tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với vật chứng thu được. Do đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 05/3/2018, Bùi Thanh B đã lén lút vào khu vực để xe của nhân viên siêu thị L ở thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam, dùng chiếc nhíp bằng kim loại mang theo mở cốp chiếc xe môtô biển kiểm soát 90H6-5921 của chị Phạm Thị Thanh T trộm cắp số tiền 1.100.000 đồng, mở cốp chiếc xe môtô biển kiểm soát 90B1-84.925 của chị Trần Thị T trộm cắp số tiền 650.000 đồng và mở cốp chiếc xe môtô biển kiểm soát 29S1-03.600 của chị Trần Thị H trộm cắp số tiền 2.300.000 đồng; tổng số tiền mà Bùi Thanh B trộm cắp là 4.050.000 đồng.

Đến khoảng 21 giờ 50 phút ngày 06/3/2018, cũng tại khu vực để xe của nhân viên siêu thị L ở thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam, Bùi Thanh B đã lén lút dùng nhíp mở khoá cốp xe môtô Air Blade biển kiểm soát 90B1-937.17 của chị Chu Thị Mai L tìm tài sản trộm cắp nhưng không có tài sản gì thì bị bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Bùi Thanh B đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”,  tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Thanh B là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Vì vậy phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo vì bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội đã nhờ gia đình bồi thường cho bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bố bị cáo tham gia kháng chiến; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn cùng vợ đang nuôi 03 con nhỏ - Là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Tuy đã xem xét đến nhân thân, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tính chất hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện nhưng để đáp ứng việc phòng chống, đấu tranh loại tội phạm trộm cắp này trên địa bàn huyện Lý Nhân trong thờigian tới thì cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo được bị cáo, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận tiền bồi thường và không có ý kiến gì khác; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu câu bồi thường nên không phải giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 chiếc nhíp bằng kim loại đã bị bẻ gẫy một bên bị cáo sử dụng vào việc phá khoá cốp xe môtô, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu huỷ; đối với số tiền 3.413.200 đồng thu giữ của Bùi Thanh B, B không nhận lại nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các vẫn đề khác: Anh Bùi Ngọc H (anh trai ruột bị cáo B) không biết việc bị cáo Bùi Thanh B sử dụng chiếc xe môtô biển kiểm soát 90H9-8004 vào mục đích phạm tội nên Công an huyện Lý Nhân đã trả lại anh Hoà chiếc xe môtô này là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Bùi Thanh B phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Bùi Thanh B 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu huỷ 01 chiếc nhíp bằng kim loại đã bị bẻ gẫy một bên.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 3.413.200 đồng thu giữ của bị cáo Bùi Thanh B.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Thanh B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày. Thời hạn trên đối với bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kể từ ngày tuyên án; đối với bị hại kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:34/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về