Bản án 34/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 34/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 30/8/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 101/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2018 về tranh chấp: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 25/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/8/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Đinh Văn C – Sinh năm: 1978

Địa chỉ: Số 26 đường H, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

2. Bị đơn: Nguyễn Thị T – Sinh năm: 1985

Địa chỉ: Số 120 đường B, tổ 81 phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn ông Đinh Văn C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Thị T kết hôn vào năm 2002 có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông chung sống tại nhà cha mẹ ông số 26 đường Nguyễn Hiền, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng ông bà sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bà T vay nợ người khác với mục đích làm gì ông hề hay biết, các chủ nợ đến nhà đòi nhiều lần làm xáo trộn cuộc sống gia đình và gây mất trật tự tại địa phương. Việc này khiến cho vợ chồng ông thường xuyên xảy cải vả, xúc phạm nhau, bà T đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ sống cho đến hôm nay. Mâu thuẫn của vợ chồng ông đã được hai bên gia đình động viên hòa giải nhưng vẫn không có kết quả. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm của ông đối với bà T không còn, do đó ông xin được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

- Về quan hệ con chung: Ông xác định giữa ông và bà T có 04 con chung: Đinh Thị Mỹ Y, sinh ngày: 08/01/1999; Đinh Thị Mỹ D, sinh ngày: 19/5/2001; Đinh Phú T, sinh ngày: 18/6/2008 và Đinh Phú T1, sinh ngày: 26/9/2009. Đối với Đinh Thị Mỹ Y đã đủ 18 tuổi, phát triển bình thường nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với Đinh Thị Mỹ D, Đinh Phú T1 và Đinh Phú T thì nguyện vọng của ông C là được nuôi cả 03 cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông C yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi 02 con T và T1 mỗi tháng 3.000.000 đồng (1.500.000 đồng/con). Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, ông không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng nuôi các con, vì ông cho rằng bà T hiện tại không có khả năng kinh tế để cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Đinh Văn C xác định không có. Tại phiên tòa hôm nay, ông xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu có tranh chấp giữa ông và bà T thì sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

- Về nợ chung: Ông Đinh Văn C xác định không có.

* Đối với bị đơn – bà Nguyễn Thị T mặc dù đã được Tòa án giao thông báo thụ lý vụ án, thông báo về các phiên họp kiểm tra công khai chứng cứ và hòa giải cũng như triệu tập tham gia phiên tòa nhưng bà Lê Thị Lành đều vắng mặt nên không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy Toà án không có cơ sở để xem xét yêu cầu và nguyện vọng của bà Lê Thị Lành.

*Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Theo đó, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng pháp luật, riêng bị đơn do bà T vắng mặt không có tin tức gì nên không xem xét việc chấp hành pháp luật của bị đơn. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 51, 56, 81, 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục: Đơn khởi kiện của ông Đinh Văn C nộp tại Tòa án là đúng thủ tục và thẩm quyền được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bà Nguyễn Thị T là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng bà T vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Bà Nguyễn Thị T và ông Đinh Văn C đăng ký kết hôn vào năm 2002 tại UBND phường N, quận S, TP. Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số 206 ngày 23/10/2002. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng ông bà về sống với nhau tại số 26 đường Nguyễn Hiền, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng ông bà sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo ông C cung cấp là do bà T vay nợ người khác với mục đích làm gì ông hề hay biết, các chủ nợ đến nhà đòi nhiều lần làm xáo trộn cuộc sống gia đình và gây mất trật tự tại địa phương. Việc này khiến cho vợ chồng ông thường xuyên xảy cải vả, xúc phạm nhau, bà T đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ sống cho đến hôm nay. Mâu thuẫn của vợ chồng ông đã được hai bên gia đình động viên hòa giải nhưng vẫn không có kết quả. Tại phiên tòa hôm nay, ông C xác định không còn yêu thương bà T nữa, ông xin được ly hôn.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của ông Đinh Văn C đối với bà Nguyễn Thị T thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thật sự có được dựa trên sự yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng giữa ông C và bà T lại không làm được điều này. Qua xác minh tại địa phương thì được biết hiện nay ông C và bà T đã ly thân, bà T đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Riêng đối với bà Nguyễn Thị T, Tòa án đã tạo điều kiện nhiều lần để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn, trở về đoàn tụ chung sống với nhau nhưng bà Nguyễn Thị T đều vắng mặt tại các phiên hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay. Việc này cho thấy bà Nguyễn Thị T không tôn trọng Tòa án và thờ ơ với việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, không có thiện chí níu kéo mối quan hệ hôn nhân của mình. Xét thấy, hiện mâu thuẫn của ông C và bà T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông C đối với bà T là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Ông C xác định có 04 con chung Đinh Thị Mỹ Y, sinh ngày: 08/01/1999; Đinh Thị Mỹ D, sinh ngày: 19/5/2001; Đinh Phú T, sinh ngày: 18/6/2008 và Đinh Phú T1, sinh ngày: 26/9/2009. Ly hôn, ông có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung là Đinh Thị Mỹ D, Đinh Phú T, và Đinh Phú T1 cho đến khi các con đủ 18 tuổi, không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng nuôi các con. Đối với cháu Đinh Thị Mỹ Y đã trên 18 tuổi, phát triển bình thường nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét yêu cầu về việc nuôi con chung của ông Đinh Văn C thì thấy: Sau khi bà T bỏ nhà đi, một mình ông C nuôi dưỡng chăm sóc các con. Hiện tại các cháu Đinh Thị Mỹ D, Đinh Phú T và Đinh Phú T1 đang ở với ông Đinh Văn C, môi trường sinh sống và học tập của các cháu đã ổn định nên cần xem xét chấp nhận yêu cầu của ông C về việc nuôi con chung để các cháu phát triển đầy đủ và toàn diện là phù hợp với quy định tại Điều 81,82, 83 Luật hôn nhân gia đình và phù hợp với nguyện vọng của các cháu Đinh Thị Mỹ D, Đinh Phú T và Đinh Phú T1. Do ông C không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Tại phiên tòa hôm nay, ông C xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: ông C xác định không có. Còn bà T do vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến của bà về tài sản chung và nợ chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này, nếu có tranh chấp các đương sự có thể khởi kiện bằng vụ án khác.

[6] Án phí HNGĐ sơ thẩm: ông Đinh Văn C phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thườn vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung" của ông Đinh Văn C đối với bà Nguyễn Thị T.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Đinh Văn C được ly hôn bà Nguyễn Thị T.

Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đinh Văn C đối với bà Nguyễn Thị T nên giấy chứng nhận kết hôn số 206 do UBND phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng cấp ngày 23/10/2002 cho ông Đinh Văn C và bà Nguyễn Thị T không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao cả 03 con chung Đinh Thị Mỹ D, sinh ngày: 19/5/2001; Đinh Phú T, sinh ngày: 18/6/2008 và Đinh Phú T1, sinh ngày: 26/9/2009 cho ông Đinh Văn C được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi, bà Nguyễn Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Các bên vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên có quyền xin thay đổi người nuôi con chung hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Án phí HNGĐ-ST: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) ông Đinh Văn C phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) ông C đã nộp tại biên lai thu số 8737 ngày 22/5/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:34/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về