Bản án 34/2017/HSST ngày 22/12/2017 về tội hiếp dâm trẻ em

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 22/12/2017 VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM 

Ngày 22 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 38/2017/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Bùi Văn L – sinh ngày 11/9/1970 tại Lương Sơn, Hòa Bình

Quê quán: xã T huyện L , tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: xã T huyện L , tỉnh Hòa Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 11/12

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mường. Tôn giáo: Không.

Con ông Bùi Đức T – sinh năm 1933 và bà Bùi Thị M – sinh năm 1936. Có vợ là Bạch Thị X , sinh năm 1975; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1995, con út sinh năm 2000.

Tiền án, tiền sự: không

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2017 đến nay. Được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Luật sư Vũ Duy Tôn - Văn phòng luật sư Tô Thanh Hồng - Đoàn luật sư tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

Người bị hại:

Cháu Nguyễn Thị Hà P , sinh ngày 31/8/2009.

Nơi cư trú: xã T huyện L , tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

Chị Bạch Thị B – sinh năm 1987 (mẹ đẻ cháu Nguyễn Thị Hà P ) Địa chỉ: xã T huyện L – tỉnh Hòa Bình.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Bà Nguyễn Thị Thúy – Luật sư Đoàn luật sư tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Bạch Thị X - sinh năm 1975

Nơi cư trú: xã T huyện L , tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Bùi Văn L bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau :

Khoảng 15 giờ 00 ngày 28/08/2017, Bùi Văn L cầm theo cặp sách học sinh đi sang nhà vợ chồng anh Nguyễn Văn T và chị Bạch Thị B (là cháu họ và ở cùng xóm với L) để đưa cặp sách cho con anh T , chị B là cháu Nguyễn Thị Hà P . Khi đi đến cổng của nhà anh T (chị B) thì L hỏi: "có ai không", lúc này cháu P đi từ trong nhà ra mở cửa. Thấy L cầm theo cặp sách thì cháu P vui mừng chạy lại gần L rồi cầm lấy cặp sách chạy mang vào bàn học ngồi xem. L cũng đi theo sau vào nhà ngồi ở bàn uống nước của gia đình anh T, tự rót nước uống. Sau đó, P liền lấy điện thoại gọi điện cho chị B về. Một lúc sau chị B về nhà, khi vào nhà thì chị B chào L rồi đi vào phòng học của cháu P sắp xếp lại đồ dùng học tập cho cháu P. Sau đó, chị B có dặn cháu P ở nhà học bài và ra chào L , bảo L ngồi uống nước rồi đạp xe đi chăn bò. Khoảng 20 phút sau thì chị B quay về nhà, lúc này L vẫn đang ngồi uống nước ở phòng khách gia đình, chị B đi vào bàn học của cháu P kiểm tra bài sau đó dặn cháu P: "ở nhà học bài, mẹ đi chăn bò rồi tiện thể đi đón em luôn", và đạp xe đi. L vẫn ngồi uống nước ở bàn, cầm điện thoại để vào mạng đọc tin tức. Một lúc sau, cháu P từ trong buồng đi ra L hỏi cháu P: “học bài xong chưa?”, cháu P trả lời: "cháu học bài xong rồi". Thấy L đang cầm điện thoại, cháu P hỏi L: "Ông đang xem gì đấy, cho cháu xem với" và đi đến ngồi vào lòng L rồi cầm điện thoại từ tay của L và bật trò chơi lên để chơi. Trong lúc ngồi vào lòng của L, mông của cháu P chạm, cọ sát vào dương vật của L khiến cho dương vật của L cương cứng. Lúc này, L nảy sinh ý định muốn giao cấu với cháu P. L liền dùng tay phải sờ vào âm hộ của cháu P từ phía bên ngoài quần, được một lúc thì đứng dậy đi ra ngoài sân. Sau đó L quay vào nhà và thấy cháu P vẫn đang cầm điện thoại chơi trò chơi ở cửa ra vào buồng ngủ. Thấy vậy, L tiến lại gần chỗ P đang đứng chơi điện thoại và hỏi: "Cháu có muốn xem chim (dương vật) của ông không, để ông cho chim (dương vật) vào bướm (âm hộ) cháu nhé". Sau đó L liền bế cháu P từ cửa buồng ngủ vào giường ngủ trong buồng của gia đình cháu P rồi đặt cháu P nằm xuống giường. Còn L đứng ở dưới giường, khom người, L dùng hai tay kéo chiếc quần đùi của cháu P xuống đến ngang hai đầu gối và dùng tay trái tự kéo khóa quần của mình xuống, lấy dương vật đang cương cứng của mình ra và đưa vào âm hộ của cháu P để thực hiện hành vi giao cấu nhưng do âm hộ của cháu P còn bé nên L không đưa vào sâu bên trong được, khi L đang thực hiện hành vi của mình thì cháu P nghe thấy tiếng xe đạp và nói: "Mẹ cháu về rồi". Nghe cháu P nói vậy, L liền kéo khóa quần của mình lên rồi đi ra cửa buồng ngủ đứng, còn cháu P tự kéo quần của mình lên, sau đó L lấy điện thoại của mình và đi về nhà. Chị B vào nhà, thấy biểu hiện của L và cháu P không bình thường thì gặng hỏi cháu P, cháu P đã kể lại toàn bộ sự việc cho mẹ nghe. Sau khi biết được sự việc, chị B đã lên Công an xã T huyện L, Hòa Bình trình báo.

Ngày 28/8/2017, Bùi Văn L  đã đến Công an huyện L đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tình dục nữ số 149/PY-TD ngày 30/8/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận: "Nguyễn Thị Hà P , sinh năm 2009 cơ thể phát triển bình thường phù hợp với lứa tuổi. Môi lớn bình thường, môi bé bên trái nề nhẹ. Màng trinh bình thường".

Tại bản kết luận giám định pháp y tình dục nam số 148/PYTD ngày 30/8/2017, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Hòa bình kết luận: “Bùi Văn L , sinh năm 1970. Trên cơ thể không thấy dấu vết của thương tích, bộ phận sinh dục phát triển và khả năng hoạt động tình dục bình thường. Hiện tại HIV âm tính”.

Về vật chứng :

Trong quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ:

- 01 (một) chiếc áo dài tay ( dạng áo công nhân) màu xám, có viền màu xanh, mặt sau có chữ “Gạch Vân Sơn”.

- 01 (một) chiếc quần vải (dạng quàn ngố) màu xám, chiều dài ống quần 48cm, cạp quần rộng 38cm.

- 01 (một) chiếc quần, loại quần cộc cạp chun có màu hồng nhạt. Cạp quần rộng 20cm, chiều dài ống 29cm, chu vi cạp quần là 40cm.

- 01 (một) chiếc áo, loại áo cộc tay màu hồng nhạt, áo không cổ. Mặt trước có chữ “I LOVE, FASHION, STYLISH, YOUNG, STYLE” và hình dáng người dắt xe đạp, Chiều dài thân áo là 43cm.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, gia đình bị cáo Bùi Văn L đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng chẵn), đại diện hợp pháp của bị hại là chị Bạch Thị B – mẹ đẻ cháu P đã nhận và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Bùi Văn L .

Tại bản cáo trạng số 27/KSĐT ngày 29/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Hiếp dâm trẻ em’’ theo quy định tại khoản 4 điều 112 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm tuy tố về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo Bùi Văn L . Qua phân tích tính chất, mức độ hậu quả hành vi bị cáo đã thực hiện, phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 4 điều 112; điểm b và điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn L từ 12 đến 13 năm tù, buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa trình bày: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo khoản 4 điều 112 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Luật sư đưa ra những tình tiết giảm nhẹ: trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo L đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thay cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; bị cáo là lao động chính trong gia đình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu - vùng xa, trình độ văn hóa và nhận thức hạn chế; bị cáo chưa có tiền án tiền sự; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú; bố đẻ bị cáo là ông Bùi Đức T đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng Nhất, bị cáo có chú ruột – ông Bùi Văn C là liệt sỹ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b và p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự. Luật sư đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt cáo dưới khung hình phạt, để bị cáo sớm được trở về cùng với gia đình và trở thành người có ích cho xã hội mà vẫn bảo đảm tính răn đe phòng ngừa chung.

Người bảo vệ quyền lợi cho người bi hại trình bày: cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo khoản 4 điều 112 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo không những vi phạm pháp luật hình sự mà còn vi phạm điều 7 Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em, vi phạm đạo đức và lối sống thuần phong mỹ tục của người Việt Nam; ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm của người bị hại. Tại thời điểm bị cáo gây án, bị hại mới 07 tuổi 11 tháng 28 ngày. Hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của bị hại, gây bất bình trong xã hội. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo nghiêm khắc để răn đe – phòng ngừa chung, đồng thời buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại khoản tiền tổn thất tinh thần và danh dự nhân phẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Bùi Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể:

Khoảng 15 giờ ngày 28/8/2017, Bùi Văn Lực đã có hành vi bế cháu Nguyễn Thị Hà P vào trong buồng ngủ của gia đình cháu P, đặt cháu P nằm xuống giường, còn bị cáo đứng ở dưới giường khom người, dùng hai tay kéo chiếc quần đùi của cháu P xuống đến ngang hai đầu gối, dùng tay trái tự kéo khóa quần của mình xuống, lấy dương vật đang cương cứng của mình ra và đưa vào âm hộ của cháu P để thực hiện hành vi giao cấu nhưng do âm hộ của cháu P còn bé nên L không đưa dương vật vào sâu bên trong được mà chỉ cọ sát bên ngoài.

Ngày 28/8/2017, Bùi Văn L  đã đến Công an huyện L đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết luận giám định pháp y, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Bùi Văn L đã cấu thành tội “Hiếp dâm trẻ em”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo khoản 4 điều 112 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Với tính chất mức độ hành vi bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo Bùi Văn L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do không kiềm chế được ham muốn dục vọng của bản thân nên đã thực hiện hành vi phạm tội.Việc bị cáo không thực hiện được đến cùng hành vi giao cấu với cháu P là ngoài ý muốn của bị cáo

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng,xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, danh dự nhân phẩm của người bị hại, vi phạm công ước quốc tế về quyền bảo vệ trẻ em, ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục – đạo đức xã hội của người Việt Nam, gây mất trật tự trị an tại địa phương.

Tuy nhiên hội đồng xét xử cũng xét ý kiến của luật sư bào chữa, đồng thời xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay: bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo là lao động chính trong gia đình, người nhà bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa, bố đẻ bị cáo là ông Bùi Đức T được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, chú ruột bị cáo – ông Bùi Văn C là liệt sỹ. Đại diện hợp pháp của bị hại cũng có đơn và tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự   được quy định tại  điểm b và điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 BLHS để hội đồng xét xử xem xét cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình, xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự :

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay – đại diện hợp pháp của người bị hại đều đề nghị tòa giải quyết trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.

Tòa xét thấy: người bị hại – cháu Nguyễn Thị Hà P sau khi bị xâm hại thì sức khỏe, đời sống, tâm lý bị tổn thương, danh dự nhân phẩm bị ảnh hưởng. Mặc dù gia đình bị hại không cung cấp được chứng từ hóa đơn nhưng cũng cần buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại các khoản sau:

- Tiền tổn thất tinh thần danh dự nhân phẩm bị xâm hại: 5 tháng lương cơ bản x 1300.000 đồng =6.500.000 đồng

- Tiền bồi dưỡng sức khỏe 1 lần do sức khỏe bị xâm hại: 3.500.000 đồng

Tổng cộng: 10.000.000đồng .

Tại phiên tòa hôm nay, chị Bạch Thị B – đại diện hợp pháp của người bị hại là cháu Nguyễn Thị Hà P thừa nhận đã nhận của gia đình bị cáo số tiền 10.000.000 đồng. Do đó, bị cáo không phải bồi thường thêm cho bị hại.

Về vật chứng:

Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo Bùi Văn L:

- 01 (một) chiếc áo dài tay ( dạng áo công nhân) màu xám, có viền màu xanh, mặt sau có chữ “Gạch Vân Sơn”.

- 01 (một) chiếc quần vải (dạng quàn ngố) màu xám, chiều dài ống quần 48cm, cạp quần rộng 38cm.

- 01 (một) chiếc quần, loại quần cộc cạp chun có màu hồng nhạt. Cạp quần rộng 20cm, chiều dài ống 29cm, chu vi cạp quần là 40cm.

- 01 (một) chiếc áo, loại áo cộc tay màu hồng nhạt, áo không cổ. Mặt trước có chữ “I LOVE, FASHION, STYLISH, YOUNG, STYLE” và hình dáng người dắt xe đạp, Chiều dài thân áo là 43cm.

Xét những vật chứng trên không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn L phạm tội “ Hiếp dâm trẻ em’’

Áp dụng khoản 4 điều 112; điểm b và p khoản 1, khoản 2 điều 46; điều 47 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bùi Văn L 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng điều 42 Bộ luật Hình sự, điều 59, 592 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Bùi Văn L phải bồi thường cho người bị hại Nguyễn Thị Hà P – đại diện hợp pháp là chị Bạch Thị B số tiền 10.000.000 đồng. Xác nhận bị cáo đã bồi thường đủ số tiền trên cho người bị hại, nay bị cáo không phải bồi thường.

3. Về vật chứng ; Áp dụng điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy

- 01 (một) chiếc áo dài tay ( dạng áo công nhân) màu xám, có viền màu xanh, mặt sau có chữ “Gạch Vân Sơn”.

- 01 (một) chiếc quần vải (dạng quần ngố) màu xám, chiều dài ống quần 48cm, cạp quần rộng 38cm.

- 01 (một) chiếc quần, loại quần cộc cạp chun có màu hồng nhạt. Cạp quần rộng 20cm, chiều dài ống 29cm, chu vi cạp quần là 40cm.

- 01 (một) chiếc áo, loại áo cộc tay màu hồng nhạt, áo không cổ. Mặt trước có chữ “I LOVE, FASHION, STYLISH, YOUNG, STYLE” và hình dáng người dắt xe đạp, Chiều dài thân áo là 43cm. ”.

Chi tiết vật chứng nói trên được nêu tại biên bản giao nhận vật chứng số 07/BB/GNVC ngày 04 tháng 12 năm 2017 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hòa bình và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hòa Bình.

4. Về án phí : Bị cáo Bùi Văn L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm,

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án: bị cáo,người bị hại ,đại diện hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

665
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 22/12/2017 về tội hiếp dâm trẻ em

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về