Bản án 34/2017/HNGĐ-ST ngày 13/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 34/2017/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 13/7/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/2017/TLST-HNGĐ ngày 08/02/2017 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/6/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phạm Thị Th, sinh năm 1984 (có mặt).

Địa chỉ: Số B, đường T, khóm M, phường N, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng.

Chỗ ở hiện nay: đường NK2, khu phố 3A, phường TH, thị xã BC, tỉnh BD.

2. Bị đơn: Ông Khưu Hoàng A, sinh năm 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số E, Quốc lộ C, khóm Y, phường Z, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/02/2017, trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa, nguyên đơn bà Phạm Thị Th trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Th và ông Khưu Hoàng A tổ chức đám cưới vào năm 2003, hôn nhân của ông, bà là hoàn toàn tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường G, thị xã ST, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27/8/2003. Thời gian đầu ông, bà chung sống hạnh phúc nhưng khoảng năm 2009 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông bà thường xuyên bất hòa xảy ra gây gổ, không còn hòa hợp, ông A thường hay đánh bà Th, có lần ông A đòi dẫn người phụ nữ khác về nhà, bà Th và gia đình ông A ngăn cản nên ông A cầm dao đe dọa bà Th và cả gia đình ông A, sự việc đã được công A phường 6 mời ông A lên phường làm việc có giữ lại 01 đêm. Thấy vậy nên bà Th đã bỏ đi làm ăn xa không dám ở chung nhà với ông A nữa. Từ đó dẫn đến cuộc sống gia đình không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được.

- Về con chung: Bà Phạm Thị Th và ông Khưu Hoàng A có hai con chung là cháu Khưu Thị Ngọc Á, sinh ngày 14/7/2004 và cháu Khưu Thị Ngọc L, sinh ngày 25/10/2007. Hiện nay, cháu Á và cháu L đang sống chung với ông A.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.

- Về nợ chung: Không có.

Nay bà Phạm Thị Th yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Th yêu cầu được ly hôn với ông Khưu Hoàng A.

- Về con chung: Sau khi ly hôn, bà Phạm Thị Th đồng ý giao cháu Khưu Thị Ngọc Á, sinh ngày 14/7/2004 và cháu Khưu Thị Ngọc L, sinh ngày 25/10/2007 cho ông Khưu Hoàng A được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Á và cháu L đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Phạm Thị Th không cấp dưỡng cho cháu Khưu Thị Ngọc Á, sinh ngày 14/7/2004 và cháu Khưu Thị Ngọc L, sinh ngày 25/10/2007.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với bị đơn ông Khưu Hoàng A: Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo cho ông A biết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng ông A không có văn bản trả lời cho Tòa án biết. Đồng thời bị đơn cũng không cung cấp chứng cứ và không tham gia phiên hòa giải và phiên tòa theo Giấy triệu tập của Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng:

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn là ông Khưu Hoàng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

 [2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Th và ông Khưu Hoàng A xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống do ông, bà không hợp nhau về tính tình, do bất đồng quan điểm sống, bà Th nghi ngờ ông A có người phụ nữ khác bên ngoài, ông A thường xuyên đánh bà Th. Tại biên bản lấy lời khai ngày 31/5/2017 ông Khưu Văn Khlà cha ruột của ông A trình bày ông A có biết được việc bà Th yêu cầu ly hôn với ông A và ông A cũng đồng ý. Ngoài ra ông Kh còn cho rằng bà Th đã đi làm ăn xa từ năm 2009 nên bà Th và ông A đã sống ly thân từ khoảng năm 2009 cho đến nay, thấy rằng lời khai của ông Kh hoàn toàn phù hợp với lời trình bày của bà Th. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà Th và ông A đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Th cho bà Th được ly hôn với ông A.

- Về con chung: Bà Phạm Thị Th và ông Khưu Hoàng A có 02 người con chung là cháu Khưu Thị Ngọc Á, sinh ngày 14/7/2004 và cháu Khưu Thị Ngọc L, sinh ngày 25/10/2007. Hiện nay 02 cháu Ngọc Á và Ngọc L đang sống chung với ông A. Sau khi ly hôn, bà Th đồng ý giao hai con chung là cháu Khưu Thị Ngọc Á và Khưu Thị Ngọc L cho ông A được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi hai cháu Ngọc Á và Ngọc L đủ 18 tuổi. Tại biên bản lấy ý kiến ngày 13/02/2017 thì cháu L và cháu Á cũng thừa nhận hiện nay đang sống chung với cha là ông A, trường hợp cha mẹ hai cháu ly hôn thì cháu Á và cháu L có nguyện vọng ở với cha là ông A. Hội đồng xét xử xét thấy, từ trước đến nay cháu L và cháu Á sống chung với ông A, cuộc sống của hai cháu đang ổn định và hai cháu cũng có nguyện vọng sống chung với cha. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Th, giao cháu L và cháu Á cho ông A trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi cháu L và cháu Á đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Th không cấp dưỡng cho cháu L và cháu Á. Tại biên bản lấy ý kiến ngày 13/02/2017 thì cháu L và cháu Á không yêu cầu mẹ hai cháu là bà Th cấp dưỡng cho hai cháu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Bà Phạm Thị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung là cháu Khưu Thị Ngọc Á và cháu Khưu Thị Ngọc L mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

 [3] Về án phí:

Bà Phạm Thị Th phải chịu án phí ly hôn số tiền là 300.000 đồng.

Ý kiến của kiểm sát viên: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Về nội dung đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 39 của Bộ luật dân sự.

- Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Bà Phạm Thị Th được ly hôn với ông Khưu Hoàng A.

2. Về con chung: Giao cho ông Khưu Hoàng A trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khưu Thị Ngọc Á và cháu Khưu Thị Ngọc L cho đến khi cháu L và cháu Á đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Phạm Thị Th không cấp dưỡng cho Khưu Thị Ngọc Á và cháu Khưu Thị Ngọc L.

Bà Phạm Thị Th có quyền và nghĩa vụ thăm nom cháu Khưu Thị Ngọc Á và cháu Khưu Thị Ngọc L mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung: Bà Phạm Thị Th trình bày tự

Về nợ chung: Bà Phạm Thị Th

4. Về án phí: Bà Phạm Thị Th phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Th đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số 0004864 ngày 03/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng. Bà Th đã nộp xong án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HNGĐ-ST ngày 13/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:34/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về