TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 340/2019/DS-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2019/TLST-DS ngày 16 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2019/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S; Địa chỉ: Lầu 8, 266 - 268 đường N, Phường P, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Bà Nguyễn Đức Thạch D; Chức danh; Tổng giám đốc.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lã Ngọc M, năm sinh 1970 (Xin vắng mặt).
(Theo giấy ủy quyền số 125/2019/UQ-TTT ngày 02/01/2019).
2. Bị đơn: Bà Dương Thị Xuân H, năm sinh 1979; Địa chỉ: Số 259/32F đường T, Phường G, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần S có ông Lã Ngọc M là người đại diện hợp pháp trình bày: Ngày 17/5/2012, bà Dương Thị Xuân H (viết tắt bà H) ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (viết tắt Ngân hàng S) hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng). Căn cứ thu nhập của bà H, Ngân hàng S đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng 50.000.000 đồng để tiêu dùng cá nhân với lãi suất 2.15%/tháng. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 468.733.650 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ bà H đã trả cho Ngân hàng S số tiền 499.216.692 đồng rồi ngưng, không tiếp tục trả nữa. Do vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 11/9/2018 Ngân hàng S đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ nêu trên và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 13/8/2019 bà H còn nợ của Ngân hàng S tổng số tiền 70.404.034 đồng, trong đó: tiền nợ gốc 51.674.009 đồng và tiền nợ lãi 18.730.025 đồng. Ngoài số tiền nêu trên, Ngân hàng S yêu cầu bà H phải tiếp tục trả tiền nợ lãi phát sinh kể từ ngày Tòa án xét xử cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng do hai bên ký kết.
Bị đơn bà Dương Thị Xuân H vắng mặt không lý do tại các buổi làm việc, hòa giải của Tòa án và cũng không có ý kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà H.
Tại phiên tòa, ông Lã Ngọc M - người đại diện hợp pháp của Ngân hàng S có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu bà Dương Thị Xuân H trả tiền nợ thẻ tín dụng còn thiếu tính đến ngày 13/8/2019 là 70.404.034 đồng, trong đó: tiền nợ gốc 51.674.009 đồng và tiền nợ lãi 18.730.025 đồng. Ngoài số tiền nêu trên, Ngân hàng S yêu cầu bà H phải tiếp tục trả tiền nợ lãi phát sinh kể từ ngày Tòa án xét xử cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng do hai bên ký kết.
Bị đơn bà Dương Thị Xuân H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử là thực hiện đúng nội dung quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.
Về nội dung vụ án: Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 17/5/2012 thì bà Dương Thị Xuân H được Ngân hàng S phê duyệt cho vay số tiền 50.000.000 đồng để tiêu dùng cá nhân với lãi suất là 2.15%/tháng. Tuy nhiên, trong quá thực hiện hợp đồng thì bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng S đã chuyển sang nợ quá hạn và tính đến ngày 13/8/2019, bà H còn thiếu tổng số tiền 70.404.034 đồng, trong đó: tiền nợ gốc 51.674.009 đồng và tiền nợ lãi 18.730.025 đồng. Ngân hàng S khởi kiện yêu cầu bà H trả tiền nợ gốc và tiền nợ lãi còn thiếu 70.404.034 đồng là có cơ sở chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp: Ngân hàng S yêu cầu bà Dương Thị Xuân H trả số tiền đã vay còn nợ. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân năm 2015.
[2] Về thẩm quyền: Xét bà Dương Thị Xuân H hiện cư trú tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngân hàng S khởi kiện bà H tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình là đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét bị đơn bà Dương Thị Xuân H đã được Tòa án niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Giấy triệu tập đương sự; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bà H vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến phản hồi. Tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Như vậy, bà H đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến Tòa án tham gia tố tụng nên bà H phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật này. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào yêu cầu khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xét xử vắng mặt bà H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[4] Xét Ngân hàng S yêu cầu bà Dương Thị Xuân H trả tiền nợ gốc còn thiếu. Hội đồng xét xử căn cứ vào Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 17/5/2012 thì giữa bà H và Ngân hàng S đã giao kết hợp đồng vay tài sản dưới hình thức sử dụng dịch vụ thanh toán tự động trừ thẻ tín dụng, theo đó bà H được Ngân hàng S phê duyệt hạn mức tín dụng là 50.000.000 đồng, tính đến ngày 13/8/2019, bà H còn thiếu số tiền nợ gốc 51.674.009 đồng. Hội đồng xét xử căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xác định bà H còn nợ Ngân hàng S số tiền nợ gốc 51.674.009 đồng là có căn cứ nên chấp nhận.
[5] Về yêu cầu trả tiền lãi, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S thì tiền lãi được tính trên từng giao dịch phát sinh theo từng ngày và theo mức lãi suất mà Ngân hàng S áp dụng vào từng thời điểm khác nhau. Cụ thể tại thời điểm bà H ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng S thì mức lãi suất là 2,15%/tháng theo Thông báo số 113/TB-TTT ngày 04/7/2011 của Ngân hàng S và thông báo chuyển nợ quá hạn nên bà H phải chịu tiền lãi quá hạn kể từ khi vi phạm. Theo bảng tóm tắt sao kê tính đến ngày 13/8/2019 thì tiền lãi mà bà H phải chịu trên số tiền nợ gốc còn thiếu 18.730.025 đồng là có căn cứ nên chấp nhận.
Từ những nhận định trên, căn cứ Điều 471, Điều 474 và Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng S buộc bà Dương Thị Xuân H trả tiền nợ gốc 51.674.009 đồng và tiền lãi 18.730.025 đồng, tổng tiền gốc và lãi 70.404.034 đồng. Ngoài ra, bà H còn phải trả khoản nợ lãi phát sinh kể từ ngày 14/8/2019 cho đến khi thanh toán dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng do hai bên đã ký.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Dương Thị Xuân H phải chịu án phí sơ thẩm trên yêu cầu Ngân hàng S được chấp nhận. Ngân hàng S được hoàn lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 68; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Các Điều 471; Điều 474 và Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 357; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 91 Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL về việc xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm;
Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S.
1.1 Buộc bà Dương Thị Xuân H trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền nợ gốc còn thiếu là 51.674.009 (Năm mươi mốt triệu sáu trăm bảy mươi bốn nghìn không trăm lẻ chín) đồng và tiền nợ lãi là 18.730.025 (Mười tám triệu bảy trăm ba mươi nghìn không trăm hai mươi lăm) đồng. Tổng cộng là 70.404.034 (Bảy mươi triệu bốn trăm lẻ bốn nghìn không trăm ba mươi bốn) đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bà Dương Thị Xuân H còn phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng đã ký kết. Trường hợp trong giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thì lãi suất mà bà H phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng.
Thời hạn và phương thức trả: Trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
1.2 Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bà Dương Thị Xuân H còn phải trả khoản nợ lãi phát sinh theo lãi suất quy định tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng ngày 03/5/2012.
Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
2.1 Bà Dương Thị Xuân H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 3.520.202 (Ba triệu năm trăm hai mươi nghìn hai trăm lẻ hai) đồng.
2.2 Ngân hàng Thương mại Cổ phần S được hoàn lại số tiền 1.347.642 (Một triệu ba trăm bốn mươi bảy nghìn sáu trăm bốn mươi hai) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0037725 ngày 28/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình.
3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị:
3.1 Ngân hàng Thương mại Cổ phần S và bà Dương Thị Xuân H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết hợp lệ bản án.
3.2 Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 340/2019/DS-ST ngày 13/08/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 340/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về