Bản án 337/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 337/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 17 tháng 04 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 835/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 07 năm 2018 về việc: “Không công nhận quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 03 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 52/2019/QĐST-HN ngày 27 tháng 03 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Anh T, sinh năm: 1976; Địa chỉ: ấp 1, xã PP, huyện BC, Thành phố HCM_có mặt;

Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn X, sinh năm: 1968; Địa chỉ: ấp 1, xã PP, huyện BC, Thành phố HCM _có mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc: “không công nhận quan hệ vợ chồng” ngày 14 tháng 06 năm 2018 nguyên đơn là bà Nguyễn Anh T trình bày giữa b và ông Nguyễn Tấn X sau khi quen biết, tìm hiểu đã tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1995, nhưng hai bên không đăng ký kết hôn. Do hai bên chung sống không hạnh phúc, thường xảy ra xung đột bất đồng, gây gổ cải vã nhau nên cả hai đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay; Giữa b và ông X sống chung với nhau có hai con chung tên là: Nguyễn Thị Phương Anh, sinh ngày 07/05/1996 (đ trưởng thành) v Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007. Tại Tòa hôm nay, bà Nguyễn Anh T yêu cầu Tòa giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa b với ông X; Về con chung: BÀ T đồng ý giao con chung là chu Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007 cho ông Nguyễn Tấn X trực tiếp nuôi dưỡng; BÀ T không có khả năng cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung: B xác định tự thỏa thuận giải quyết; Về nợ chung, các nghĩa vụ dân sự khác: BÀ T tự khai không có.

Tại bản tự khai và biên bản làm việc, ông Nguyễn Tấn X trình bày: ông xác nhận những vấn đề mà bà T trình bày ở trên như về thời gian chung sống, thời gian phát sinh mâu thuẫn, về nguyên nhân mâu thuẫn đúng như lời trình bày của bà T; ông cũng yêu cầu Tòa giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông và bà T, về con chung: ông yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007. ông có đủ khả năng nuôi dưỡng con chung và k không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung: ông xác định tự thỏa thuận giải quyết; Về nợ chung: ông xác định không có. Tại phiên tòa hôm nay, ông Nguyễn Tấn X có mặt và giữ nguyên quan điểm như trình bày ở trên; Ông cho biết thêm trước đây Tòa án đã tống đạt trực tiếp quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập ông đến nghe xét xử nhưng ngày đó ông vắng mặt vì bận công việc đột xuất nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa và tống đạt quyết định hoãn phiên tòa cũng như giấy triệu tập xét xử cho ông và ông đã có mặt tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của các đương sự, cùng các tài liệu có trong hồ sơ có cơ sở xác định đây là vụ kiện Hôn nhân gia đình về việc “không công nhận quan hệ vợ chồng”, vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Ông Nguyễn Tấn X là bị đơn có nơi cư trú tại ấp 1, xã PP, huyện Bình Chánh nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2. Về các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản làm việc cũng như tại Tòa hôm nay bà Nguyễn Anh T cho biết vào năm 1995, bà và ông Nguyễn Tấn X sau khi quen biết, tìm hiểu đã tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng nhưng hai bên không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống giữa bà và ông X lúc đầu có hạnh phúc nhưng đến năm 2017 hai bên phát sinh mâu thuẫn vì không hợp tính tình, bất đồng quan điểm ý kiến và đã sống ly thân từ đó đến nay nên bà yêu cầu giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng với ông X.

Về vấn đề này, Hội đồng xét xử nhận thấy: việc bà T và ông X tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng là có thật, nhưng hai bên lại không đăng ký kết hôn nên đã vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình về đăng ký kết hôn. Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”; Tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình lại quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này, nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”. Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”; Đối chiếu các quy định trên của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận thấy việc bà Nguyễn Anh T yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà với ông Nguyễn Tấn X là đúng quy định của pháp luật nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Anh T xin không công nhận quan hệ vợ chồng với ông Nguyễn Tấn X.

Về con chung: Bà T và ông X có hai con chung tên là: Nguyễn Thị Phương Anh, sinh ngày 07/05/1996 (đã trưởng thành) và Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007; Cháu: Nguyễn Thị Phương Anh, sinh ngày 07/05/1996_đã trưởng thành, nên không yêu cầu xem xét. Riêng cháu Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007 bà T và ông X đồng thỏa thuận như sau: Bà T đồng ý giao cháu Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007 cho ông X tiếp tục nuôi dưỡng; ông X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự về con chung phù hợp với quy định tại các Điều 15, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình do đó được công nhận.

Về tài sản chung: Bà T và ông X xác định tự thỏa thuận giải quyết nên Tòa không xét đến.

Về nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Hai bên tự khai không có_Tòa không xét.

Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) do bà Nguyễn Anh T chịu.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 63, Điều 146, Điều 147, Điều 203, Điều 220, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, 16, khoản 2 Điều 53, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ vo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017; Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Không công nhận bà Nguyễn Anh T và ông Nguyễn Tấn X là vợ chồng.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Anh T và ông Nguyễn Tấn X có hai con chung tên là: Nguyễn Thị Phương Anh, sinh ngày 07/05/1996_đã trưởng thành, nên Tòa không Xét đến.

Riêng cháu Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007 thì công nhận sự thỏa thuận giữa bà Nguyễn Anh T và ông Nguyễn Tấn X như sau: bà Nguyễn Anh T đồng ý giao cháu Nguyễn Anh Trí, sinh ngày 06/04/2007 cho ông Nguyễn Tấn X tiếp tục nuôi dưỡng; ông Nguyễn Tấn X không yêu cầu bà Nguyễn Anh T cấp dưỡng nuôi con chung; Nếu sau này có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết sau.

Bà Nguyễn Anh T có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con. Người không nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Bà T và ông X xác định tự thỏa thuận giải quyết nên Tòa không xét đến.

4. Về nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Hai bên tự khai không có nên Tòa không Xét đến.

5. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) do bà Nguyễn Anh T chịu, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Nguyễn Anh T đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005392 ngày 27/06/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Anh T đã nộp đủ tiền án phí theo quy định.

Trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

(Đã giải thích cho đương sự (người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự) biết về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 337/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:337/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về