TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 335/2020/HS-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 382/2020/HSST ngày 6 /7/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4032/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Duy P; Sinh ngày: 15/01/1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 183/124/55 Bến vân Đồn, Phường 6, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 115/34 đường 51, Phường 14, quận G Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tuấn H và bà Nguyễn Thị H; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 19/02/2020 – Có mặt Người bào chữa:
Ông Trịnh Bá T, là Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy P – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 23 giờ 00 phút ngày 19/02/2020, tại trước nhà số 09, đường số 59 Phường 14, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an Phường 14, quận Gò Vấp, phát hiện Nguyễn Duy P có biểu hiện nghi vấn nên đưa về trụ sở Công an phường để kiểm tra. Qua kiểm tra đã thu giữ ở túi quần bên phải phía trước của Nguyễn Duy P đang mặc có một vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, bên trong có một gói ny lon chứa tinh thể màu hồng, có khối lượng 2,6320gam, kết quả giám định không tìm thấy chất ma túy, 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 51N – 419.08 và số tiền 125.000.000 đồng tiền Việt Nam.
Tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Duy P tại nhà số 115/34 đường 51, Phường 14, quận G, Công an thu giữ trong túi nylon màu hồng để trong ngăn thứ 2 từ trên xuống của tủ giày dép đặt cạnh cửa ra vào phía bên phải, gồm: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,0668g loại Methamphetamine (MA) và 337,33g loại Ketamine cùng số tiền 100.000.000 đồng tiền Việt Nam (BL 92 96).
Tất cả số ma túy thu giữ nêu trên đã được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 348/KLGĐ-H ngày 28/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 48).
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Duy P khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 18/02/2020 Phong dùng điện thoại di động số 0937468022 gọi cho điện thoại di động có số 0705941579 của người thanh niên tên Toàn (không rõ lai lịch) hỏi mua 300g ma túy tổng hợp loại (hàng khay) với số tiền 120.000.000 đồng. Toàn đồng ý bán và hẹn địa điểm giao dịch tại Cầu Tham Lương, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Thỏa thuận xong, Nguyễn Duy P điều khiển xe gắn máy biển số 51N – 419.08 đến điểm hẹn gặp Toàn. Nguyễn Duy P đưa cho Toàn 120.000.000 đồng và nhận của Toàn 01 túi ny lon màu hồng, bên trong có 01 gói ny lon chứa ma túy loại Ketamine. Nguyễn Duy P để túi ny lon màu hồng lên baga giữa của xe gắn máy rồi chạy về nhà tại số số 115/34 đường 51, Phường 14, quận Gò Vấp, cất vào ngăn tủ giày dép đặt tại cạnh bên phải cửa ra vào cùng với gói ma túy có khối lượng 5,0668g loại Methamphetamine, Phong mua trước đó của một người đàn ông (không rõ lai lịch) tại Cầu Tham Lương để sử dụng.
Đến khoảng 20 giờ ngày 19/02/2020 Nguyễn Duy P tiếp tục điều khiển xe gắn máy đi đến Cầu Tham Lương, mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 gói ny lon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu hồng với giá 500.000 đồng, Nguyễn Duy P khai là ma túy loại hồng phiến. Mua xong Nguyễn Duy P bỏ gói ma túy vào trong bao thuốc lá hiệu Jet rồi bỏ vào túi quần phía trước, bên phải rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến trước nhà số 09, đường số 59, Phường 14, quận Gò Vấp thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, sau đó khám xét chỗ ở và thu giữ vật chứng như nêu trên.
Vật chứng của vụ án:
- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 348/20/G1 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC09) và Điều tra viên Nguyễn Chí Hiếu (PC04), bên trong là tinh thể màu hồng, không tìm thấy ma túy, còn lại sau giám định.
- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 348/20/G2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC09) và Điều tra viên Nguyễn Chí Hiếu (PC04), bên trong gồm: - 01 gói nylon bên trong là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine còn lại sau giám định. 01 gói nylon bên trong là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine còn lại sau giám định.
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh (không kiểm tra được imei, loại, do không có nguồn điện).
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen (…7480) - 03 sim điện thoại nằm trong điện thoại - 01 bao thuốc lá hiệu Jet - Số tiền 225.000.000 đồng tiền Việt Nam, Nguyễn Duy P khai trong đó 125.000.000 đồng là tiền Nguyễn Duy P đi lấy giùm cho một người tên Tẻn (không rõ lai lịch), 100.000.000 đồng còn lại là tiền của Hoàng Thị Kim N (sống với Nguyễn Duy P như vợ chồng). Hiện tại Ngân đã bỏ đi đâu không rõ nên cơ quan điều tra chưa lấy được lời khai.
- 01 xe hai bán gắn máy, nhãn hiệu: Yamaha; số loại: Exciter, biển số:
50N1 – 419.08; số khung: RLCE1S9308Y002129, số máy: 1S93002129, Nguyễn Duy P khai là xe Nguyễn Duy P mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) trên mạng “Chợ tốt.com” với số tiền 20.000.000 đồng dùng làm phương tiện đi lại. Ngày 19/02/2020 Nguyễn Duy P sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng thì bị bắt quả tang.
Kết quả điều tra xác minh được biết xe trên do ông Nguyễn Tấn C, trú tại 650/4/20A, Điện Biên Phủ, Phường 11, Quận 10 đứng tên chủ sở hữu. Khoảng tháng 9/2019 ông Nguyễn Tấn C đã bán xe lại cho một người mua bán xe (không rõ lai lịch) và không làm hợp đồng mua bán xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có ai liên hệ giải quyết.
Tại bản Cáo trạng số 291/CT-VKS-P1 ngày 30/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
* Tại phiên Tòa:
- Bị cáo Nguyễn Duy P đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, phát biểu lời luận tội, giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm h khoản 4; khoản 5 Điều 249; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P từ 16 đến 17 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung bị cáo số tiền 15.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định. Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động bị cáo dùng vào việc phạm tội, trả cho bị cáo chiếc điện thoại không liên quan đến vụ án. Trả cho bị cáo số tiền 100.000.000 đồng. Đối với số tiền 125.000.000 đồng bị cáo khai là tiền đi lấy giùm cho người có tên Tẻn, nhưng không biết người đó ở đâu và chiếc xe gắn máy Yamaha loại Exciter, biển số:
50N1 – 419.08 bị cáo dùng vào việc phạm tội nhưng chưa xác định được chủ sở hữu, đề nghị cho thông báo tìm chủ sở hữu đối với số tiền và chiếc xe nêu trên, nếu không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy P là Luật sư Trịnh Bá T trình bày quan điểm bào chữa như sau:
Thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo Phong. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết: Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ chỉ mới vừa vượt qua mức thấp nhất của khung hình phạt; Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế; Có nhân thân tốt phạm tội lần đầu, thái độ khai báo thành khẩn. Ngoài lời khai của bị cáo ra không còn chứng cứ nào khác để khẳng định bị cáo tàng trữ ma túy nhiều lần. Đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị cáo phạm tội nhiều lần là không đúng.
Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và không áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần, cho bị cáo được hưởng mức án đầu khung hình phạt là phù hợp.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tranh luận: Về tội danh, khung hình phạt và tình tiết giảm nhẹ mà Luật sư nêu ra là thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, nên không có ý kiến.
Đối với quan điểm của Luật sư về việc không áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần đối với bị cáo Nguyễn Duy P là không đúng, bởi vì: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai đã đi mua ma túy 03 lần, trong đó lần thứ 3 không phải là ma túy. Lần đầu mua 5,0668g loại Methamphetamine (MA) về cất trong tủ đựng giày dép, lần thứ hai mua 337,33g loại Ketamine về cất trong ngăn tủ bên cạnh gói ma túy mua lần đầu. Lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng được thu giữ. Vì vậy có đủ căn cứ kết luận bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy 02 lần, nên vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét thấy tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Duy P đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, Biên bản phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ đồ vật, tài liệu và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở kết luận:
Do bản thân nghiện ma túy nên bị cáo Nguyễn Duy P thường đến khu vực Cầu Tham Lương, quận Tân Bình mua ma túy của những người không rõ lai lịch, đem về nhà để sử dụng. Khoảng 18 giờ ngày 18/02/2020 Nguyễn Duy P điều khiển xe gắn máy đến khu vực Cầu Tham Lương, mua của người đàn ông tên Toàn không rõ lai lịch 01 gói ny lon chứa ma túy (hàng khay), qua giám định là Ketamine, có khối lượng 337,33g với số tiền 120.000.000 đồng, đem về nhà cất vào ngăn tủ giày dép đặt tại bên phải cửa ra vào cùng với gói ma túy qua giám định có khối lượng 5,0668g loại Methamphetamine, Phong đã mua trước đó của một người đàn ông không rõ lai lịch tại Cầu Tham Lương để sử dụng.
Khoảng 20 giờ ngày 19/02/2020 Phong tiếp tục đến khu vực Cầu Tham Lương, mua 01 gói ny lon bên trong có chứa tinh thể màu hồng với giá 500.000 đồng của một người không rõ lai lịch, Nguyễn Duy P khai là ma túy loại hồng phiến, (qua giám định không tìm thấy chất ma túy), bỏ vào trong bao thuốc lá hiệu Jet rồi bỏ vào túi quần rồi đi về nhà thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.
Xét thấy bị cáo Nguyễn Duy P có hành vi tàng trữ trái phép 5,0668g ma túy loại Methamphetamine và 337,33g ma túy loại Ketamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, nên đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Duy P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 201 ) như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội, mặt khác nó còn là nguyên nhân làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng, là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo biết rõ ma túy là một loại tệ nạn xã hội, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng do muốn có ma túy để thỏa mãn cho nhu cầu bất chính của bản thân, bị cáo vẫn cố ý phạm tội, chứng tỏ ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy P, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.
Xét quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về tội danh, khung hình phạt cũng như tình tiết giảm nhẹ mà Luật sư và đại diện Viện kiểm sát đã nêu, cơ bản là thống nhất với nhau và có cơ sở, nên chấp nhận. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Nguyễn Duy P theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết phạm tội 02 lần trở lên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, bởi vì tại quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai đã mua ma túy 03 lần đem về phòng trọ cất giữ để sử dụng dần, trong đó lần thứ 03 bị cáo mua 01 gói ny lon chứa tinh thể màu hồng, không tìm thấy chất ma túy. Còn lần đầu bị cáo mua 01 gói ny lon bên trong chứa 5,0668g loại Methamphetamine về cất trong tủ đựng giày dép, lần thứ hai mua 01 gói ny lon bên trong 337,33g loại Ketamine về cất trong ngăn tủ giày dép bên cạnh gói ma túy mua lần đầu. Khi khám nhà bị cáo, Công an thu giữ trong tủ giày dép 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng 5,0668g loại Methamphetamine và 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng 337,33g loại Ketamine. Như vậy ngoài lời khai của bị cáo còn chứng cứ khác là vật chứng được thu giữ phù hợp với lời khai của bị cáo, nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên đối với bị cáo Phong là có căn cứ. Không chấp nhận quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo, vì không có cơ sở.
Đối với các đối tượng tên Toàn và những người đã bán ma túy cho Nguyễn Duy P, do Phong khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh rõ để xử lý.
[4] Về hình phạt bổ sung:
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy P, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung, phạt bị cáo một số tiền, nộp vào ngân sách Nhà nước.
[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án gồm có:
- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 348/20/G1 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC09) và Điều tra viên Nguyễn Chí Hiếu (PC04), bên trong là tinh thể màu hồng, không tìm thấy ma túy, còn lại sau giám định. 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 348/20/G2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC09) và Điều tra viên Nguyễn Chí Hiếu (PC04), bên trong gồm: - 01 gói nylon bên trong là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine còn lại sau giám định. - 01 gói nylon bên trong là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine còn lại sau giám định. Tất cả là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị, nên tịch thu tiêu hủy;
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh (không kiểm tra được imei, loại, do không có nguồn điện) bị cáo khai dùng liên lạc với gia đình, không dùng vào việc phạm tội, là vật không liên quan đến vụ án, nên trả lại cho bị cáo;
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen (…7480) Phong khai dùng liên lạc với Toàn để mua ma túy về sử dụng, đây là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
- 03 sim điện thoại nằm trong điện thoại là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo nên tịch thu, tiêu hủy.
- 01 bao thuốc lá hiệu Jet, là vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy;
- Đối với số tiền 225.000.000 đồng tiền Việt Nam. Nguyễn Duy P khai trong đó 125.000.000 đồng là tiền Nguyễn Duy P đi lấy giùm cho một người tên Tẻn (không rõ lai lịch), 100.000.000 đồng còn lại là tiền của Hoàng Thị Kim N (sống với Nguyễn Duy P như vợ chồng). Hiện tại Hoàng Thị Kim N đã bỏ đi đâu không rõ nên cơ quan điều tra chưa lấy được lời khai.
Xét thấy quá trình điều tra không chứng minh được số tiền 225.000.000 đồng trên là do bị cáo phạm tội mà có hoặc là tiền dùng vào việc phạm tội. Mặt khác tại thời điểm thu giữ số tiền trên đang thuộc quyền quản lý hợp pháp của bị cáo, không có căn cứ để tịch thu theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, nên cần trả lại cho bị cáo. Vì vậy không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc tịch thu số tiền 125.000.000 đồng.
Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc trả lại số tiền 100.000.000 đồng cho bị cáo.
- Đối với 01 (một) xe máy hiệu Yamaha loại Exciter, biển số: 50N1 – 419.08; số khung: RLCE1S9308Y002129, số máy: 1S93002129, Phong khai là xe Phong mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) trên mạng “Chợ tốt.com” với số tiền 20.000.000 đồng dùng làm phương tiện đi lại. Ngày 19/02/2020 Nguyễn Duy P sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng thì bị bắt quả tang. Kết quả điều tra xác minh được biết xe trên do ông Nguyễn Tấn C, trú tại 650/4/20A, Điện Biên Phủ, Phường 11, Quận 10 đứng tên chủ sở hữu. Khoảng tháng 9/2019 ông Nguyễn Tấn C đã bán xe lại cho một người mua bán xe (không rõ lai lịch) và không làm hợp đồng mua bán xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có ai liên hệ giải quyết.
Xét thấy chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha loại Exciter, biển số 50N1 – 419.08; số khung: RLCE1S9308Y002129, số máy: 1S93002129, là phương tiện dùng vào việc phạm tội, hiện chưa xác định được chủ sở hữu, nên giao cho Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm, nếu không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận, thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[6] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về hình phạt:
- Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P 17 (mười bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 02 năm 2020; Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[2] Về xử lý vật chứng:
- Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
* Tịch thu, tiêu hủy:
01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 348/20/G1 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC09) và Điều tra viên Nguyễn Chí Hiếu (PC04), bên trong là tinh thể màu hồng, không tìm thấy ma túy, còn lại sau giám định.
01 gói niêm phong bên ngoài ghi số 348/20/G2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC09) và Điều tra viên Nguyễn Chí Hiếu (PC04), bên trong gồm: - 01 gói nylon bên trong là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine còn lại sau giám định. - 01 gói nylon bên trong là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine còn lại sau giám định. 01 bao thuốc lá hiệu Jet; 03 sim điện thoại nằm trong điện thoại * Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen (…7480).
* Trả cho bị cáo Nguyễn Duy P:
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh (không kiểm tra được imei, loại, do không có nguồn điện) - Số tiền 225.000.000 (Hai trăm hai mươi lăm triệu) đồng tiền Việt Nam.
* Giao Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm, nếu không có chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu hiệu Yamaha, biển số: 52S2 - 4097; số khung RLCE1S9206Y004869, số máy: 1S92-004869 đến nhận, thì chiếc xe trên được tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
(Các vật chứng đã nêu hiện đang được lưu giữ tại Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/334 ngày 30/6/2020của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng số tiền 225.000.000 đồng, đã được nộp vào tài khoản tạm thu tại Kho bạc Nhà nước Quận 10, theo giấy nộp tiền của Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (tại bút lục 62)).
[3] Án phí hình sự sơ thẩm:
Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án;
Buộc bị cáo Nguyễn Duy P nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). [4] Về quyền kháng cáo:
Căn cứ khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 335/2020/HS-ST ngày 21/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 335/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về