TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 332/2021/HS-PT NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 287/2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Thao Văn L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HSST ngày 24/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thh.
* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:
Thao Văn L, sinh năm 1992 tại tỉnh Thh; Nơi cư trú: Bản Kéo Té, xã Nhi Sơn, huyện Mlt, tỉnh Thh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thao Chá P (Thao Chú P) và bà Chá Thị M; Vợ là Sung Thị S và có 04 con (con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2019); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/4/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thh; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Hữu G - Công ty Luật TNHH Thiên Tân, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thh; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15h ngày 17/4/2020 Tổ công tác Đội 1, Phòng PC04 Công an tỉnh Thh phối hợp với Tổ công tác Công an huyện Lch, tỉnh Thh đang làm nhiệm vụ tại khu vực Km66+300 Quốc lộ 15C thuộc bản Táo, xã Trung Lý, huyện Mlt, tỉnh Thh thì phát hiện một nam giới đang ngồi trên xe máy Honda RSX BKS 36K1-072.98 và một phụ nữ đang cầm 01 túi nilon màu đen cách xe máy khoảng 10m có biểu hiện nghi vấn. Kiểm tra người nam giới khai tên Thao Văn L, người phụ nữ tên là Sung Thị S (vợ của Thao Văn L), kiểm tra túi nilon màu đen S đang cầm bên trong có gói giấy màu trắng đựng 16 túi nilon màu xanh và 04 túi nilon màu hồng, bên trong mỗi túi nilon đều có chứa 02 viên nén hình tròn màu xanh và 198 viên nén hình tròn màu đỏ, nghi là ma túy. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Thao Văn L và niêm phong toàn bộ vật chứng.
* Tang vật thu giữ gồm:
- 01 túi nilon màu đen bên trong có 01 gói giấy màu trắng đựng 16 túi nilon màu xanh và 04 túi nilon màu hồng. Bên trong mỗi túi chứa 02 viên nén hình tròn màu xanh và 198 viên nén hình tròn màu đỏ. Tổng số viên nén màu xanh là 40 viên và tổng số viên nén màu đỏ là 3.960 viên.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, loại máy cảm ứng, màu đen thu của Thao Văn L.
- 01 xe máy nhãn hiệu Honda RSX Biển kiểm soát 36K1-072.98 thu của Thao Văn L.
- 01 căn cước công dân số 038092010930 mang tên Thao Văn L thu của Thao Văn L.
Tại Bản kết luận giám định số 1195/PC09 ngày 22/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thh kết luận: 40 viên nén màu xanh của hộp giấy ký hiệu M1 niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng là 4,086gam, loại methamphetamine và 3.960 viên nén màu đỏ của hộp giấy ký hiệu M1 niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng 384,43gam loại methamphetamine. Tổng khối lượng là 388,516gam loại methamphetamine.
Quá trình điều tra, Thao Văn L khai nhận như sau: Khoảng 14h ngày 17/4/2020, Thao Văn L điều khiển xe máy Honda RSX BKS 36K1-072.98 chở Sung Thị S (vợ của Thao Văn L) đi từ nhà đến bản Táo, xã Trung Lý, huyện Mlt để mua đinh về đóng bờ rào. Khi Thao Văn L đi đến đoạn đường thuộc bản Kéo Cưa, xã Trung Lý, huyện Mlt thì gặp Thao Chứ P1, khoảng 40 tuổi ở bản Pá Hộc, xã Nhi Sơn, huyện Mlt đang đi bộ bên đường. Thao Chứ P1 gọi Thao Văn L dừng xe máy lại bên đường rồi bảo L đi vào con đường đất (đường đi vào rừng cách đường nhựa khoảng 50m), phía bên phải đường (tính từ xã Nhi Sơn đến xã Trung Lý). Sung Thị S không đi cùng L mà đứng tại vị trí L dừng xe máy (bên lề đường Quốc lộ 15C). Sau khi nói chuyện, Thao Chứ P1 đặt vấn đề thuê L vận chuyển ma túy từ bản Kéo Cưa, xã Trung Lý đến bản Táo, xã Trung Lý để giao cho người thanh niên tên C. Xong việc, Thao Chứ P1 sẽ trả cho L 10.000.000đ tiền công, L đồng ý nhận lời. Sau đó, Thao Chứ P1 bảo L chở vợ đi mua đinh xong thì quay lại chỗ cũ để gặp. Sau khi thống nhất xong, Thao Văn L chở vợ đến bản Táo, xã Trung Lý để mua đinh. Khoảng 30 phút sau, Thao Văn L cùng vợ quay lại chỗ cũ, rồi một mình đi bộ đến điểm hẹn để gặp Thao Chứ P1. Khi gặp Thao Chứ P1, P1 đưa cho L 01 túi nilon màu đen đựng ma túy hồng phiến và bảo L1 đi đến khu vực bản Táo, xã Trung Lý gặp người thanh niên tên C (đang ngồi trên xe ô tô 4 chỗ đậu bên đường nhựa) và giao túi ma túy cho C. Thao Chứ P1 cho L số điện thoại của người tên C để liên lạc. Sau khi nhận túi ma túy từ P1, L đi lại chỗ vợ đang chờ và để túi nilon ma túy ở gác giữa của xe máy rồi chở vợ đi về hướng bản Táo, xã Trung Lý. Khi đi đến bản Táo, Thao Văn L thấy có xe ô tô 4 chỗ đang đậu bên lề đường nhựa nên đã lấy túi nilon ma túy màu đen đựng hồng phiến đưa cho S, nhưng L không nói cho S biết bên trong túi nilon đựng ma túy. L bảo Sung Thị S mang túi nilon đến chỗ xe ô tô đang đậu hỏi xem người ngồi trong xe ô tô có phải tên là C không, nếu đúng thì giao túi nilon cho người này. S đồng ý và cầm túi nilon ma túy từ L đưa rồi đi bộ đến xe ô tô. Khi Sung Thị S đi được khoảng 10m thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thh kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ túi nilon mà S đang cầm trên tay. Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thh đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HSST ngày 24 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thh đã căn cứ vào: Điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bị cáo Thao Văn L tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành án được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/4/2020. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/3/2021, bị cáo Thao Văn L có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 22/3/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có Quyết định kháng nghị số 06/QĐ-VC1-HS với nội dung đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử theo thủ tục phúc thẩm, áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm b, tiểu mục 3.1 Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giảm cho bị cáo từ tù chung thân xuống mức án 20 năm tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Thao Văn L khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã quy kết và thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo là người dân tộc, kém hiểu biết pháp luật, hoàn cảnh gia đình khó khăn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự phiên tòa thay đổi một phần nội dung kháng nghị như sau: đề nghị áp dụng điểm b, tiểu mục 3.3 Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Quyết định Kháng nghị số 06/QĐ-VC1-HS đề nghị áp dụng điểm b, tiểu mục 3.1 Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). Cho bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, cũng như kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội để giảm hình phạt cho bị cáo từ tù chung thân xuống mức án 20 năm tù.
- Luật sư Nguyễn Hữu G bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, có nhân thân tốt, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng núi kinh tế đặc biệt khó khăn, bị cáo là người không biết chữ, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên đã thực hiện hành vi phạm tội, hiện tại bị cáo đang phải nuôi 04 con nhỏ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân và hoàn cảnh gia đình để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Lời sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thh, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2]. Về nội dung vụ án: Trên cơ sở các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15h ngày 17/4/2020 tại khu vực Km66+300 Quốc lộ 15C thuộc bản Táo, xã Trung Lý, huyện Mlt, tỉnh Thh, Tổ công tác Đội 1 Phòng PC04 Công an tỉnh Thh phối hợp với Công an huyện Lch, tỉnh Thh phát hiện bắt quả tang Thao Văn L đang vận chuyển trái phép 388,516 gam ma túy, loại Methamphetamine để lấy tiền công.
Hành vi phạm tội nêu trên của Thao Văn L thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đã xâm phạm vào chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Vì vậy Tòa án nhân dân tỉnh Thh xử phạt bị cáo Thao Văn L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét Quyết định kháng nghị số 06/QĐ-VC1-HS ngày 22/3/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Hội đồng xét xử thấy: Áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự như kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đối với bị cáo là có căn cứ, đồng thời cũng phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tại phiên tòa. Bởi bị cáo Thao Văn L là người dân tộc, sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, bị cáo là người không biết chữ; có bác ruột là ông Thao Sùng Súa được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất.
[4]. Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi vận chuyển thuê ma túy cho người khác nhằm mục đích kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán trái phép chất ma túy. Hiện nay, tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Thh nói riêng và cả nước nói chung ngày càng diễn biến phức tạp, hành vi phạm tội ngày càng táo bạo và liều lĩnh, gây khó khăn cho công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Trước khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và xử phạt tù chung thân đối với bị cáo là đúng với tính chất, mức độ mà hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.
[5]. Như đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo nhưng vẫn giữ nguyên mức hình phạt tù chung thân như Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo vì hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, đã vận chuyển trái phép 388,516 gam ma túy, loại Methamphetamine là số lượng ma túy rất lớn được quy định theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự. Do đó, không chấp nhận phần nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội về phần đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo, cũng như kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo.
[6]. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7]. Về án phí phúc thẩm: Do bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên, Căn cứ vào Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội; Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Thao Văn L. Sửa một phần quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HSST ngày 24 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thh về điều luật áp dụng.
Căn cứ vào: Điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Thao Văn L tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/4/2020.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Thao Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 332/2021/HS-PT ngày 21/07/2021 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 332/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về