Bản án 33/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 33/2021/HSST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn H, tên gọi khác: không có; sinh ngày 03/02/1993, tại T. N, H. P. Nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện T. N, thành phố H. P; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình Q (đã chết) và bà Vũ Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/11/2012 bị TAND thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã thi hành xong phần dân sự.

+ Ngày 29/5/2013, bị TAND huyện T, thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp 02 bản án, H phải chấp hành hình phạt chung là 18 tháng tù. Ngày 25/01/2014 H đã chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/12/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi chứng kiến: 1. Anh Vũ Văn H, sinh năm: 1990.

Địa chỉ: Tổ 1, khu H 1, phường P, thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Chị Trần Thị Ánh L, sinh năm: 1990; địa chỉ: Thôn T, xã A, thị xã Q, tỉnh Q, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 10 phút, ngày 22/12/2020, tổ công tác Cảnh sát điều tra về ma túy Công an thành phố U phối hợp cùng Công an phường P, thành phố U làm nhiệm vụ tại tổ 2, khu H, phường P, thành phố U, phát hiện bắt quả tang Vũ Văn H có hành vi cất giấu trái phép chất nghi là ma túy. Thu giữ tại túi áo khoác bên tay trái H đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (2 x 2,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra Công an còn tạm giữ của H 01 xe mô tô Honda Wave α biển kiểm soát 14P3-81… đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 122/KLGĐ ngày 27/12/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Q kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,347 gam.

Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa Vũ Văn H khai nhận: Khoảng 17 giờ, ngày 22/12/2020, H được một người bạn mới quen (H không nhớ tên tuổi và không biết địa chỉ của người này) điều khiển xe mô tô BKS 14P3-81 rủ sang tỉnh Q mua ma túy “đá” về sử dụng, H đồng ý. Trên đường đi, người này điện thoại cho người đàn ông khác hỏi mua ma túy với giá 500.000 đồng. Khi đi qua cầu Đ, sang đến địa phận thành phố U, đi được khoảng 02km thì gặp người bán ma túy, người này đưa cho H 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (2x2,5)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, rồi cả hai quay lại thành phố H. Trên đường về, H đưa túi ma túy cho người bạn của mình kiểm tra rồi cho vào vỏ bao thuốc lá đưa lại cho H cầm, H cất vỏ bao thuốc lá vào túi áo khoác bên trái. Khi đi đến gần cầu Đ, thành phố U thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại Cáo trạng số: 32/CT- VKSUB ngày 22/3/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/12/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng, nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 122/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn.

Đối với xe mô tô hiệu Honda Wave α, màu đỏ biển kiểm soát 14P3-81…, chưa xác định được chủ sở hữu, cơ quan điều tra tách ra làm rõ, xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, với lời khai của những người chứng kiến, với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường P lập hồi 18 giờ 15 phút ngày 22/12/2020, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 10 phút, ngày 22/12/2020, tại khu vực tổ 2, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Q, Vũ Văn H là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 0,347 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư, bị cáo là người có nhân thân xấu đã 02 lần bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, nên cần phải xử lý nghiêm.

* Tình tiết tăng nặng: Không có.

*Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có tài sản riêng, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Số ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tàng trữ, nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Wave α biển kiểm soát 14P3-81… chưa xác định được chủ sở hữu, Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau, nên không đề cập.

[5] Những tình tiết khác trong vụ án: Đối với người đàn ông H khai bán ma túy cho H và người thanh niên rủ H đi mua ma túy không xác minh được địa chỉ, lai lịch, nên không có căn cứ xử lý.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố 

Bị cáo Vũ Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Văn H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 122/KLGĐ còn nguyên vẹn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

(Có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 3 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố U và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vũ Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:33/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về