Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 19/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 47/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Q, sinh ngày năm 1981 (có mặt);

Địa chỉ: ấp TX, xã Đ, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn D, sinh năm 1981 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp ĐT, xã Đ, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 14/5/2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trương Thị Q trình bày và yêu cầu như sau:

Chị và anh Lê Văn D chung sống với nhau vào năm 2004, đến ngày 08/7/2011 đi đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đ cấp Giấy chứng nhận kết hôn. Quá trình chung sống chị và anh Lê Văn D 01 người con chung tên: Lê Vĩ H, sinh ngày 10/10/2009 hiện nay đang chung số với anh Lê Văn D, trước khi chung sống với anh Lê Văn D, chị có đứa con riêng tên Lê Thị C, sinh ngày 11/9/2005 hiện nay đang chung sống với chị; về tài sản chung, chị và anh Lê Văn D không có tài sản chung; về nợ chị và anh Lê Văn D không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị. Thời gian chung sống chị và anh Lê Văn D sống không hạnh phúc, do anh Lê Văn D thường xuyên đi làm ăn đánh bắt thủy sản khoảng 03 tháng mới về 01 lần rồi ghen tuông vô cớ, đánh đập chị nên chị bỏ đi sống ly thân với anh Lê Văn D khoảng 04 năm nay. Chị thấy, chị và anh Lê Văn D không còn tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu Tòa giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhân, chị yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn D. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung tên Lê Thị C, sinh ngày 11/9/2005 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, chị không yêu cầu anh Lê Văn D cấp dưỡng nuôi con chung và hiện nay đang chung sống với chị, đồng thời chị giao con chung tên Lê Vĩ H, sinh ngày 10/10/2009 cho anh Lê Văn D nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, chị không cấp dưỡng nuôi con chung và hiện nay đang chung sống với anh Lê Văn D. Về tài sản chung và nợ, chị và anh Lê Văn D không có tài sản chung, chị cam kết, chị và anh Lê Văn D không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị nên chị không yêu cầu giải quyết.

* Tại văn bản trình bày nguyện vọng ngày 14/02/2021, Lê Thị C trình bày: Từ khi cha và mẹ của Lê Thị C không còn chung sống với nhau thì Lê Thị C chung sống với mẹ là chị Trương Thị Q, tại ấp TX, xã Đ, huyện AB, tỉnh Kiên Giang, nếu mẹ cha ly hôn thì Lê Thị C có nguyện vọng chung sống với mẹ là chị Trương Thị Q.

* Tại văn bản trình bày nguyện vọng ngày 14/02/2021, Lê Vĩ H trình bày: Từ khi cha và mẹ của Lê Vĩ H không còn chung sống với nhau thì Lê Vĩ H chung sống với mẹ là chị Trương Thị Q, tại ấp TX, xã Đ, huyện AB, tỉnh Kiên Giang, nếu mẹ cha ly hôn thì Lê Vĩ H có nguyện vọng chung sống với cha là anh Lê Văn D.

* Tại biên bản xác minh ngày 02/02/2021, về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:

Anh Lê Văn D, cư trú: ấp ĐT, xã Đ, huyện AB, tỉnh Kiên Giang thường xuyên đi làm ăn, về gia đình thời gian không xác định được, chị Q và anh D chung sống với nhau được 01 thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cải với nhau hôn nhân không hạnh phúc.

* Bị đơn anh Lê Văn D: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn và nuôi con của chị Trương Thị Q nên Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng minh nhân dân tên Trương Thị Q và sổ hộ khẩu; Giấy chứng nhận kết hôn Trương Thị Q và Lê Văn D; Giấy khai sinh Lê Thị C và Lê Vĩ H; Đơn xin xác nhận tình trạng cư trú của đương sự ngày 13/5/2020; Bản trình bày nguyện vọng ngày 14/02/2021 của Lê Thị C; Bản trình bày nguyện vọng ngày 14/02/2021 của Lê Vĩ H; Biên bản xác minh ngày 02/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện An Biên.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Trương Thị Q yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn D. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con tên Lê Thị C sinh ngày 11/9/2005 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, chị không yêu cầu anh Lê Văn D cấp dưỡng nuôi con và hiện nay đang chung sống với chị, đồng thời chị giao con chung tên Lê Vĩ H, sinh ngày 10/10/2009 cho anh Lê Văn D nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, chị không cấp dưỡng nuôi con và hiện nay đang chung sống với anh Lê Văn D. Về tài sản chung và nợ, chị và anh Lê Văn D không có tài sản chung, chị cam kết, chị và anh Lê Văn D không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị nên chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Lê Văn D vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Trương Thị Q yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn D và nuôi con theo nguyện vọng của các con anh chị là có căn cứ chấp nhận nên đền nghị Hội đồng xét xử cho chị Trương Thị Q được ly hôn với anh Lê Văn D. Về quan hệ con chung, khi anh chị ly hôn giao người con tên Lê Thị C cho chị Quen nuôi dưỡng, đồng thời giao người con chung tên Lê Vĩ H cho anh Lê Văn D nuôi dưỡng theo nguyện của các con anh chị. Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ, chị Trương Thị Q không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Trương Thị Q yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Lê Văn D và nuôi con. Nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại xã Đ, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Lê Văn D biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Trương Thị Q khởi kiện đối với anh nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh D vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại Điều 206 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho anh D nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đồng thời, tại phiên toà lần thứ hai chị Q không yêu cầu hoãn phiên toà. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Lê Văn D theo quy định tại khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Trương Thị Q và anh Lê Văn D chung sống với nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã Đ là nơi cư trú của anh chị) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 137, quyển số 01/2011 ngày 08 tháng 7 năm 2011, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình 2000 nay là Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét khởi kiện của chị Trương Thị Q được ly hôn với anh Lê Văn D, thời gian chị và anh D sống không hạnh phúc, do anh Lê Văn D thường xuyên đi làm ăn đánh bắt thủy sản khoảng 03 tháng mới về 01 lần rồi ghen tuông vô cớ, đánh đập chị nên chị bỏ đi sống ly thân với anh Lê Văn D khoảng 04 năm nay. Chị thấy, chị và anh Lê Văn D không còn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu được ly hôn với anh D nhưng anh D không có ý kiến yêu cầu gì, không quan tâm đến việc chị Q yêu cầu ly hôn với anh là vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng lẫn nhau mà anh chị không có biện pháp hàn gắn để chung sống với nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Q cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh D. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị Q, cho chị Trương Thị Q được ly hôn với anh Lê Văn D là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung, chị Trương Thị Q và anh Lê Văn D có 01 người con chung tên: Lê Vĩ H, sinh ngày 10/10/2009 hiện nay đang chung sống với anh Lê Văn D, trước khi chung sống với anh Lê Văn D, chị Q có người con riêng tên Lê Thị C, sinh ngày 11/9/2005 hiện nay đang chung sống với chị Q. Khi ly hôn chị Q yêu cầu được nuôi con tên Lê Thị C đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Lê Thị C, chị Q giao con chung tên Lê Vĩ H cho anh Lê Văn D nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Lê Vĩ H nhưng anh D không có ý kiến gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của chị Q và nguyện vọng của Lê Thị C và Lê Vĩ H, giao con của anh chị tên Lê Thị C, sinh ngày 11/9/2005 cho chị Q được nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Lê Thị C, giao con của anh chị tên Lê Vĩ H cho anh Lê Văn D được nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Lê Vĩ H là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị Trương Thị Q và anh Lê Văn D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ, chị Trương Thị Q xác định, anh chị không có tài sản chung, không nợ người khác, người khác không nợ anh chị và chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 206, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTV QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trương Thị Q được ly hôn với anh Lê Văn D.

2. Về quan hệ con chung: Giao con của anh chị tên Lê Thị C, sinh ngày 11/9/2005 cho chị Q được nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Lê Thị C; giao con của anh chị tên Lê Vĩ H cho anh Lê Văn D được nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Lê Vĩ H.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trương Thị Q và anh Lê Văn D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ: Chị Trương Thị Q xác định, anh chị không có tài sản chung, không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị và chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

5. Về án phí: Buộc chị Trương Thị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0007194 ngày 28 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Trương Thị Q đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

6. Báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 28/5/2021. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về