Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 538/2020/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 387/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06/01/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Hồng Ng, sinh năm 1989, nơi cư trú: tổ 01, ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Phú, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Có đơn xin vắng mặt - Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1990, nơi cư trú: ấp Bờ Dâu, xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 22 tháng 9 năm 2020 và trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Phạm Hồng Ng trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2009, sau khi tìm hiểu thì chị và anh T kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú. Chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn do anh T cờ bạc, rượu chè không chăm lo cuộc sống gia đình và thường xuyên có hành vi bạo lực với chị. Dù đã nhiều lần hàn gắn nhưng không được nên anh chị đã ly thân từ tháng 5/2020. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: anh chị có 02 (hai) con chung tên Phạm Chí Cường, sinh ngày 30/01/2010 và Phạm Hải Quân, sinh ngày 15/02/2018. Hiện con chung đang do chị nuôi dưỡng, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

- Bị đơn anh Phạm Văn T đã được Tòa án tống đạt các thủ tục tố tụng đúng theo quy định pháp luật nhưng anh không gửi văn bản tự khai và không tham gia tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến của anh.

Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện theo giấy triệu tập của Tòa án là vi phạm Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ng, cho chị Ng ly hôn với anh T. Anh chị có 02 (hai) con chung tên Phạm Chí Cường, sinh ngày 30/01/2010 và Phạm Hải Quân, sinh ngày 15/02/2018. Giao con chung cho chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng và anh T không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: chị Ng khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T, địa chỉ cư trú của anh T là tại xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Châu Phú có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng anh vắng mặt không có lý do và chị Ng có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T và chị Ng theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Anh T và chị Ng tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn vào ngày 26/02/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang nên được pháp luật Việt Nam công nhận hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Nay cuộc sống hôn nhân phát sinh mâu thuẫn và tình cảm vợ chồng không còn nên chị Ng yêu cầu được ly hôn với anh T.

[2.2] Tòa án đã thực hiện, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T để anh thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn tuy nhiên cho đến nay anh T vẫn vắng mặt không tham gia phiên họp, hòa giải, xét xử và không gửi văn bản trình bày ý kiến, xem như anh tự từ bỏ quyền lợi của bản thân.

[2.3] Qua xác minh thì địa phương xác định anh T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Về tình trạng hôn nhân và mâu thuẫn cụ thể giữa vợ chồng anh chị như thế nào thì địa phương không rõ.

[2.4] Anh chị là vợ chồng thì phải có nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau cũng như chia sẻ, hỗ trợ nhau trong cuộc sống nhưng trên thực tế anh chị đã không còn sự thăm nom, chăm sóc lẫn nhau, hiện anh chị không còn chung sống cùng nhau. Anh chị ly thân từ tháng 5/2020 cho đến nay nhưng vẫn không thể giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị Ng yêu cầu ly hôn do mâu thuẫn trầm trọng trong cuộc sống hôn nhân và chị từ chối hòa giải cũng như xin vắng mặt khi xét xử cho thấy sự cương quyết trong việc yêu cầu ly hôn, phía anh T thì vắng mặt trong thời gian giải quyết vụ án, không có thể hiện thiện chí muốn hàn gắn đoàn tụ gia đình, không quan tâm đến yêu cầu ly hôn của chị Ng. Như vậy cho thấy cuộc sống chung của anh chị không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nếu duy trì hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai do đó yêu cầu ly hôn của chị Ng với anh T là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.5] Anh chị có 02 (hai) con chung tên Phạm Chí Cường, sinh ngày 30/01/2010 và Phạm Hải Quân, sinh ngày 15/02/2018 hiện đang do chị Ng nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị Ng yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu Cường có khiếm khuyết về nghe nói, cần có sự chăm sóc của mẹ và cần đảm bảo ổn định tâm lý, cuộc sống sinh hoạt của cháu. Đối với cháu Hải Quân thì dưới 36 tháng tuổi, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 chấp nhận giao 02 (hai) con chung cho chị Ng được tiếp tục nuôi dưỡng và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị Ng và thành viên gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

[2.6] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.7] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: chị Ng phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh T không phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53, khoản 1, khoản 3 Điều 81, khoản 1, khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Hồng Ng.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phạm Hồng Ng ly hôn với anh Phạm Văn T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 34 ngày 26 tháng 02 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang cấp cho chị Phạm Hồng Ng và anh Phạm Văn T không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về quan hệ con chung: Anh chị có 02 (hai) con chung tên Phạm Chí Cường, sinh ngày 30/01/2010 và Phạm Hải Quân, sinh ngày 15/02/2018 hiện đang do chị Ng nuôi dưỡng. Giao 02 (hai) con chung cho chị Ng được tiếp tục nuôi dưỡng và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị Ng và thành viên gia đình không được ngăn cản anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Phạm Hồng Ng phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003742 ngày 08/10/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Phú. Anh Phạm Văn T không phải chịu án phí sơ thẩm.

Chị Phạm Hồng Ng và anh Phạm Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về