Bản án 33/2020/HSST ngày 27/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 33/2020/HSST NGÀY 27/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2020 tại Toà án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:28/2020/HSST ngày 22/5/2020. Theo Quyếtđịnh đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2020, đối vớibị cáo :

Nguyễn Duy K, sinh ngày 03 tháng 01 năm 1995 tại Yên Bái; Nơi cư trú:

Thôn T, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 12/12;

dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam;con ông: Nguyễn Xuân N và bà Nguyễn Thị V; có vợ là Phùng Thị Phương T và 01 con sinh năm 2019. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/12/2019 đến ngày 21/4/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn . Hiện tại ngoạixã Ah, huyện V, tỉnh Yên Bái; có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1994; địa chỉ: Tổ 8, phường Y, thànhphố Y,tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

+ Anh Lê Văn T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnhYên Bái; vắng mặt.

+Anh Mã Tiến H, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện V, tỉnhYên Bái; vắng mặt.

+ Anh Hoàng Bảo L, sinh năm 1995; địa chỉ: Tổ 6,phường M,thành phố Y, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

+ Anh Phạm Thế D, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ 10, phường B, thành phố L,tỉnh Lào Cai; vắng mặt.

+ Anh Cao Văn V, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện V, tỉnh Lào Cai; vắng mặt.

+ Chị ĐàoThị Hải N, sinh năm 2001; địa chỉ: Tổ 6 phường Y,thành phố Y tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

+ Anh Văn Công Đ, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn H,thị trấn T, huyện B, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Anh Lý Kim H - tên gọi khác: Nguyễn Minh H, sinh năm 1993;địa chỉ: Tổ 2, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

+ Anh Phan Hải L, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ 14, phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

+ Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn S, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

+ Anh Lê Ngọc T, sinh năm 1999; địa chỉ: Khu 2 Đ, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; vắng mặt.

+ Anh Phạm Quốc V, sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn T, xã T,huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc;vắng mặt.

+ Anh Lý Mạnh T, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn K, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Huy T, sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện T, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

+ Anh Đặng Ngọc T, sinh năm 1992; địa chỉ: Tổ 14, thị trấn Y, huyện L, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

Người làm chứng:

+ Chị Triệu Thị M, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn B, xã V, huyện L, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Linh C sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

+ Anh Phan Việt H, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc;vắng mặt.

+Anh Vũ Ngọc C, sinh ngày 01 tháng 8 năm 2003; địa chỉ: Thôn 2, xã M, thành phố Y, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp cho Vũ Ngọc C là bà Bùi Thị C, sinh năm 1970 (là mẹ đẻ của anh C); địa chỉ: Thôn 2, xã M, thành phố Y, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

+ Anh Đào Duy H, sinh ngày 27 tháng 3 năm 2003; địa chỉ: Thôn T, xã T, thành phố Y, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của anh Đào Duy H là bà Hoàng Thị T, sinh năm 1979 (mẹ đẻ của anh H) địa chỉ: Thôn T, xã Tân T, thành phố Y, tỉnh Yên Bái;vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/12/2019 Nguyễn Duy K đi Hà Nội mua 02 loại ma túy gồm 01 túi Ketamin “Ke” và 01 túi MDMA “Kẹo”, đều được đựng trong túi nilon màu trắng, có khóa kẹp với giá 10.000.000đồng (Mười triệu đồng) của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại một ngõ ở khu vực phố cổ gần bờ hồ Hoàn Kiếm,Thành phố Hà Nội, Khánh mang số ma túy mua được theo người mục đích sử dụng cho bản thân.

Ngày 28/12/2019 K được Nguyễn Minh H, sinh năm 1993, trú tại tổ 1, phường M, thành phố Y, mời dự đám cưới tại nhà riêng. Tại đây, K gặp một số bạn bè của H, do thấy H bận nên K chủ động mời mọi người trong đó có Lê Văn T, Mã Tiến H, Hoàng Bảo L, Phạm Thế D, Cao Văn V, Văn Công Đ, Lý Kim H(Nguyễn Minh H), Phan Hải L, Hoàng Văn C, Lê Ngọc T, Phạm Quốc V, Lý Văn T, Nguyễn Huy T, Đặng Ngọc T, Nguyễn Linh C, Triệu Thị M và Phan Việt H, sau khi ăn cơm xong thì đi hát tại quán Karaoke ROME trên đường Âu Cơ thuộc thôn T, xã T, thành phố Y và được mọi người đồng ý. Khoảng 20 giờ cùng ngày 28/12/2019 K và mọi người đến quán hát Karaoke ROME và được quản lý quán hát bố trí tại một phòng ở tầng 2. Trong lúc hát K có nói với người quản lý của quán cho anh em hát muộn hơn, người quản lý nói cứ đúng giờ thì nghỉ nên K bảo mọi người trong phòng di chuyển đến quán Karaoke RUBY thuộc tổ 8, phường Y, thành phố Y để hát.

Khoảng 22 giờ cùng ngày 28/12/2019 K và mọi người đến quán RUBY, được chủ quán bố trí phòng VIP2, khi mọi người vào phòng hát, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên K đi ra phía sau quán lấy một chiếc đĩa sứ màu trắng mang vào phòng hát, sau đó K lấy một thẻ nhựa để trong ví ra để làm dụng cụ sào Ke (Ketamin), lấy tờ tiền mệnh giá 10.000đồng (Mười nghìn đồng) cuốn lại và lấy vỏ đầu lọc của điếu thuốc lá “555” cố định hai đầu mục đích làm ốnghít ma túy. Khi K chưa kịp lấy số ma túy đã sào để sử dụng thì Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái vào kiểm tra nên K ném xuống dưới sàn nhà gần chỗ K ngồi thì bị tổ công tác phát hiện và thu giữ :

- Tại sàn nhà: 01 túi nilon màu trắng có nẹp kéo, bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng có nẹp kéo bên trong có nhiều viên nén màu xanh;

- Tại mặt bàn phòng hát thu giữ: 01 ống tự tạo được cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000đồng (Mười nghìn đồng) hai đầu được bọc bằng vỏ đầu lọc thuốc lá; 01 thẻ nhựa; 01 đĩa sứ màu trắng;

Tạm giữcủa Hoàng Thị L 01 điện thoại di động Iphone 6 màu xám để trên mặt chiếc âm ly;của Nguyễn Duy K: 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphonne, số tiền 3.900.000đồng và một số đồ vật, tài sản của các đối tượng có mặt.

Tại bản kết luận giám định số 15/GĐMT ngày 04/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng thu giữ ngày 28/12/2019 tại vị trí Nguyễn Duy K, phòng VIP 2 quán karaoke RUBY thuộc tổ 8, phường Y, thành phố Ycó khối lượng là 9,78gam; 1,17 gam trích từ 9,78 chất tinh thể màu trắng gửi đi giám định là ma túy loại Ketamine.

- Các viên nén màu xanh thu giữ ngày 28/12/2019 tại vị trí Nguyễn Duy K phòng VIP 2 quán karaoke RUBY có khối lượng là 5 gam; 1,87 gam trích từ 5gam các viên nén màu xanh gửi đi giám định là ma túy loại MDMA.

Cáo trạng số: 30/CT-VKS-TP ngày 21/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truytô bị cáo Nguyễn Duy K về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy Kphạm tội:“Tàng trữtrái phép chất ma túy” Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s; t khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm ; Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quancó quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Duy Kthành khẩn khai nhậnhành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân tỉnhYên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]Lời khai nhận tộicủa bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khaicủa những người tham gia tố tụngvà các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và đánh giá. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 25/12/2019, Nguyễn Duy K đã có hành vi mua 9,78 gam (chín phẩy không tám gam) matúy loại Ketamin và 05 gam (năm gam) ma túy loại MDMA của mộtngười không biết tên và địa chỉ tại Thành phố Hà Nội, mục đích mang theo người để sử dụng. Tối ngày 28/12/2019 Khánh mời mọingười đến hát tại phòng VIP2 quán Karaoke RUBY thuộc tổ 8, phường Y, thành phố Y. K đã sử dụng đĩa sứ, ống hút và thẻ nhựa làm dụng cụ sào Ketamin “Ke” mục đích để sử dụng cho bản thân, khi K chưa kịp lấy số ma túy đã xào để sử dụng thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phát hiện thu giữ. Hành vi của bị cáo Nguyễn Duy K đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy K là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người sử dụng là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo đang bị toàn xã hội bài trừ và lên án. Do đó, cần phải đưa bịcáo ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Duy K là người có sức khỏe, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Đây thể hiện sự coi thường pháp luật, ý thức rèn luyện bản thân của bị cáo là rất kém. Cần phải có mức hình phạt thỏa đáng tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, thì mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dâncó ích và phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra , truy tô va tai phiên toa bi cao thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện ra tội phạm. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s; t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:Bị cáokhông có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Nguyễn Duy K là người có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên áp dụng cho bị cáo được hưởng chế định quy định tại Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[7]Đối với Nguyễn Duy K, Lê Văn T, Mã Tiến H, Hoàng Bảo L, Phạm Thế D, Cao Văn V, Văn Công Đ, Lý Kim H (Nguyễn Minh H), Phan Hải L, Hoàng Văn C, Lê Ngọc T, Phạm Quốc V, Lý Văn T, Nguyễn Huy T, Đặng Ngọc T, Vũ Ngọc C, Triệu Thị M, Phan Việt H trước khi đến quan Karaoke RUBY đã có hành vi sử dụng trái phép chất matúy, tiến hành xét nghiệm chất ma túy các đối tượng trên đều dương tính với ma túy tổng hợp. Các đối tượng trên đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là phù hợp.

Đối với Hoàng Thị L là người quản lý cơ sở Karaoke RUBY. Quá trình điều tra xác định, chị L có hành vi:“Sử dụng người không đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào làm việc trong cơ sở kinh doanh và điều kiện về an ninh trật tự” và không thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý an ninh, trật tự đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện” quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định 167/NĐ- CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái đã chuyển hồ sơ tài liệu có liên quan đến chị Hoàng Thị L cho phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an tỉnh Yên Bái để xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nguyễn Duy K, do không biết tên tuổi và địa chỉ cụ thể của người này nên không có căn cứ để điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Đào Duy H nhân viên lễ tân của quán Karaoke RUBY, là người bố trí sắp xếp cho Nguyễn Duy K và một số người được K mời đến hát tại phòng VIP2, cùng với anh Nguyễn Ngọc C và chị Đào Thị Hải N nhân viên quán Karaoke RUBY cũng có mặt tại phòng VIP2 khi Cơ quan công an tiến hành kiểm tra. Quá trình điều tra xác định những người này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo K nên không đặt vấn đề xử lý.

[8]Về vật chứng:

Đối với 9,78 gam ma túy loại Ketamine thu giữ của Nguyễn Duy K, cơ quan giam đinh đa trich 1,17 gam giam đinh con lai 8,61gam ma túy loại Ketamine và 1,87gam ma túy loại MDMA, Cơ quan giam đinh đa trich 1,26 gam giám định còn lại 3.13 gam ma túy loại loại MDMA đươc niêm phong trong một phong bì do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 20 vỏ phong bì đã mở niêm phong, 02 túi nilon màu trắng, 02 vỏ đầu lọc thuốc lá loại “555”, 01 thẻ nhựa có chữ “LOUIS VUITTON” 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, 21 (hai mươi mốt) phong bì do phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái phát hành niêm phong kết quả xét nghiệm ma túy đối với các đối tượng liên quan trong vụ án, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 tờ tiền do ngân hàng Nhà Nước Việt Nam phát hành mệnh giá 10.000đồng (Mười nghìn đồng) được Nguyễn Duy K tự tay cuốn mục đích để sử dụng ma túy cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone đã qua sử dụng và 3.900.000đồng (Ba triệu chín trăm nghìn đồng) là tài sản hợp pháp của Nguyễn Duy K; 01 chiếc điện thoại Iphone vỏ màu xám đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của chị Hoàng Thị L không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo K cần trả lại các chủ sở hữu hợp pháp.

Đối vớicác tài sản, đồ vật tạm giữ trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho các đối tượng liên quan trong vụ án, Hội đồng xét xử không xem xét.

[9]Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : Điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s; t khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về “ Án phí và lệ phí Tòa án”.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K: 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được khấu trừ 03 tháng 21 ngày tạm giam.

3. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 8,61 gam ma túy loại Ketamine và 3,13 gam ma túy loại loại MDMA đươc niêm phong trong một phong bì do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành mặt trước phong bì có ghi: “ Vật chứng thu giữ tại phòng VIP2 Karaoke RUBY thuộc tổ 8, phường Yên Th ịnh, thành phố Yên Bái ngày 28/12/2019 (sau khi đã trích mẫu giám định). Mặt sau các mép được dán kín có tên chữ ký và bốn dấu hình tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự công an, tỉnh Yên Bái;20 vỏ phong bì đã mở niêm phong;02 túi nilon màu trắng;

02 vỏ đầu lọc thuốc lá loại “555”; 01 thẻ nhựa có chữ “LOUIS VUITTON”; 01 chiếc đĩa sứ màu trắng; 21 (hai mươi mốt) phong bì do phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái phát hành niêm phong kết quả xét nghiệm ma túy đối với: Nguyễn Duy K, Vũ Ngọc C, Phạm Thế D, Lê Văn T, Nguyễn Minh H, Lê Ngọc T, Cao Văn V, Hoàng Bảo L, Triệu Thị M, Phạm Quốc V, Hoàng Văn C, Phan Hải L, Văn Công Đ, Phan Việt H, Mã Tiến H, Lý Văn T, Nguyễn Huy T, Đào Thị Hải N, Nguyễn Linh C, Đặng Ngọc T, Đào Duy H.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền: 10.000 đồng (Mười nghìn đồng) được niêm phong trong một phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành. Mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ án thu tại phòng VIP2 quán Karaoke RUBY (sau khi giám định). Mặt sau được dán kín có họ tên chữ ký và bốn dấu hình tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự công an, tỉnh Yên Bái.

- Trả cho bị cáo Nguyễn Duy K: 01 chiếc điện thoại Iphone đã qua sử dụng và 3.900.000đồng (Ba triệu chín trăm nghìn đồng) ; Trả cho chị Hoàng Thị L 01 chiếc điện thoại Iphone vỏ màu xám đã qua sử dụng.

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy Kphải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Nguyễn Duy K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Đi ều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HSST ngày 27/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về