TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 25/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 477/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:
Lê Nguyễn Quốc H; sinh năm 1979 tại Khánh Hòa; ĐKHKTT: 69 HVT, phường VT, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở hiện nay: 69 HVT, phường VT, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công H+- sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị Hồng V- sinh năm 1955; tiền án: Bản án số 97/2012/HSST ngày 21/5/2012 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/9/2014, đã đóng 200.000đ án phí HSST theo biên lai số 5735 ngày 12/3/2013, 550.000đ sung công quỹ theo biên lai số 5739 ngày 17/4/2013, đối với số tiền 4.450.000đ sung công quỹ đã được đình chỉ theo Quyết định số 110 ngày 18/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N. Bản án số 112/2017/HSST ngày 08/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/12/2018, đã đóng 200.000đ án phí HSST theo biên lai số 7950 ngày 02/10/2017; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/8/2019 đến ngày 12/8/2019, ngày 17/9/2019 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
- Bị hại: Nguyễn Vũ Hm- sinh năm 2000; trú tại: Tổ 1 VĐT, VH, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Vũ Hn- sinh năm 1995; trú tại: Tổ 1 VĐT, VH, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Nguyễn Vũ Hx - sinh năm 1997; trú tại: Tổ 2 VĐT, VH, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.
+ Võ Lê Đình Đ - sinh năm 1969; trú tại: Thôn XL, VN, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 08/8/2019, do cần tiền để mua ma túy sử dụng, Lê Nguyễn Quốc H đi bộ đến khu vực tổ 1 VĐT, xã VH, thành phố N tìm ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đến trước nhà chị Nguyễn Vũ Hm, H thấy trước sân nhà có 01 xe máy hiệu Honda Blade biển kiểm soát 79N2-304.41 không có người trông giữ, H đi vào sân rồi dùng dụng cụ phá khóa xe máy mang theo sẵn trong người phá khóa chiếc xe máy trên và dắt ra ngoài. Khi H vừa dắt xe đi thì bị chị Hm phát hiện nên truy hô. H thấy vậy để xe tại chỗ rồi bỏ chạy ra ngoài thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ giao cho Công an xã VH. Tại cơ quan công an, H khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 435/HĐĐG ngày 12/8/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự- UBND Tp.N kết luận: 01 xe máy hiệu Honda Blade biển kiểm soát 79N2-304.41 trị giá 15.280.000đ (mười lăm triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng).
Vật chứng thu giữ gồm 01 xe máy hiệu Honda Blade biển kiểm soát 79N2-304.41 đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Vũ Hn; 01 thanh kim loại lục giác có một đầu dẹp dài 06 cm- chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N.
Bản Cáo trạng số 10/CT-VKSNT ngày 25 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố N để xét xử Lê Nguyễn Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Nguyễn Quốc H theo tội danh, khung hình phạt như trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng tại phiên tòa bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Nguyễn Quốc H thừa nhận vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 08/8/2019, tại khu vực tổ 1 VĐT, xã VH, thành phố N, H trộm cắp 01 xe máy hiệu Honda Blade biển kiểm soát 79N2-304.41 trị giá 15.280.000đ của chị Nguyễn Vũ Hm. Lơi khai nhận tội cua bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được va cac chưng cư khac co tai hô sơ vu an . Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự. Bản án số 112/2017/HSST ngày 08/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt Lê Nguyễn Quốc H 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/12/2018 nên bị cáo chưa được xóa án tích. Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2017/HSST ngày 08/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Nha T xác định Lê Nguyễn Quốc H tái phạm do trước đó H bị xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (bản án hình sự sơ thẩm số 97/2012/HSST ngày 21/5/2012 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa), chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/9/2014. Do đó bị cáo H phạm tội trộm cắp tài sản lần này là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, bản Cáo trạng số 10/CT-VKSNT ngày 25 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa truy tố Lê Nguyễn Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo Lê Nguyễn Quốc H là nguy hiểm, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất ổn định trật tự xã hội ở địa phương. Về nhân thân: Bản án số 25/2007/HSST ngày 30/01/2007 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2008; Bản án số 211/2008/HSST ngày 01/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/12/2009; Bản án số 131/2010/HSPT ngày 17/8/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/5/2011. Thể hiện bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy phải xử lý nghiêm minh, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản phạm tội đã được thu hồi trả cho bị hại nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, tích cực cải tạo, sớm trở thành công dân tốt.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo trộm cắp của chị Nguyễn Vũ Hm 01 xe máy hiệu Honda Blade biển kiểm soát 79N2-304.41 (xe đứng tên chủ sở hữu là chị Nguyễn Vũ Hn- chị ruột của Hm), tại phiên tòa chị Hm, chị Hn vắng mặt nhưng có lời khai đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên Tòa không xét.
[5] Về vật chứng vụ án: 01 thanh kim loại lục giác có một đầu dẹp dài 06 cm là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo Lê Nguyễn Quốc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật với số tiền là 200.000đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng điểm g khoản 2 Điêu 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đôi vơi bi cao Lê Nguyễn Quốc H.
- Xử phạt bị cáo:Lê Nguyễn Quốc H 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, thời gian bị tam giữ từ ngày 08/8/2019 (ngày bắt quả tang) đến ngày 12/8/2019 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
- Không xét bồi thường thiệt hại về tài sản giữa bị cáo đối với bị hại Nguyễn Vũ Hm.
- Vê vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại lục giác có một đầu dẹp dài 06 cm. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/01/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N và Chi cục thi hành án dân sự Tp.N).
- Về án phí: Bị cáo Lê Nguyễn Quốc H phải ch ịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghin đồng).
- Quyền kháng cáo của bi cao là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, quyền kháng cáo của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết đê yê u câu Toa an nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 33/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 33/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về