Bản án 33/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2020/HSST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử vụ án số: 56/2020/QĐXXST- HS ngày 02/12/2020 đối với bị cáo:

Vừ A S (tên gọi khác không), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1994 tại huyện C, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản A, xã B, huyện C, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: theo Đạo phật; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Vừ Bả S1 và bà Thào Thị S2; có vợ Giàng Thị S3 và có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/7/2020 đến nay. Có mặt.

Trợ giúp viên pháp lý: Ông Trần Minh S4 là Luật sư thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người phiên dịch cho bị cáo: Ông Giàng Và S5, trú tại Thôn 7, xã B, huyện C, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 25/7/2020 tổ công tác Công an huyện C phối hợp với các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại khu vực bản A, xã B, huyện C phát hiện, bắt quả tang Vừ A S, trú tại xã B, huyện C đang có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vừ A S. Vật chứng thu giữ: 08 túi nilon (02 túi nilon màu hồng, 06 túi nilon màu xanh), bên trong chứa 1570 viên nén màu hồng (Nghi là Methamphetamine).

Ngày 27/7/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng. Trích mẫu trưng cầu giám định: 08 túi nilon (02 túi nilon màu hồng, 06 túi nilon màu xanh), bên trong chưa 1.570 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 156,69 gam. Trích mỗi túi 05 viên (tổng cộng 40 viên) có khối lượng 4,08 gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu từ V1A đến V8A.

Tại kết luận giám định số 1246 ngày 29/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu từ V1A đến V8A đều là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 4,08 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 156,69 gam; loại Methamphetamine.” Quá trình điều tra Vừ A S khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 25/7/2020, Vừ A S đi từ nhà tại bản A, xã B, huyện C đến bãi chăn thả gia súc (giáp biên giới Việt Nam – Lào). Tại đây, S gặp hai người đàn ông dân tộc Mông, một người tự giới thiệu ở bên Lào sang, còn một người giới thiệu ở xã A, huyện C. Qua nói chuyện, người đàn ông ở xã A đặt vấn đề thuê S vận chuyển ma túy từ bản A đến bản A, xã B, huyện C và hứa trả công cho S 1.000.000đ (người đàn ông không bảo S giao ma túy cho ai), S nhất trí. Người đàn ông đưa cho S 01 túi nilon bên trong có 08 túi nilon hồng phiến (02 túi nilon màu hồng, 06 túi nilon màu xanh). Sau khi giao ma túy cho S, người đàn ông ở xã A bỏ đi trước, còn người đàn ông dân tộc Mông (Lào) đi bộ đến khu vực bản A, xã B, huyện C thì bị tổ công tác Công an huyện C phối hợp với các lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang đối với Vừ A S và thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Còn người đàn ông dân tộc Mông (Lào) bỏ chạy thoát.

Về nguồn gốc 1.570 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 156,69 gam thu giữ trong vụ án, Vừ A S khai của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tự giới thiệu ở xã A, huyện C. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, điều tra.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông (Lào), quá trình điều tra Vừ A S khai không biết họ tên, địa chỉ. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh điều tra.

Tại cáo trạng số: 149/CT-VKS - P1 ngày 26/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Vừ A S về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và Điều luật áp dụng đối với bị cáo và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Vừ A S phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo: Vừ A S 20 (hai mươi) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 152,61gam Methamphetamine còn lại đã trừ mẫu giám định.

Quan điểm của Luật sư Trần Minh S4, thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn La, bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, sau khi bị bắt và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, mở lượng khoan hồng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt tù và miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

Bị cáo Vừ A S nhận tội và nhất trí với quan điểm của Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý người bào chữa cho bị cáo, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Ngày 25/7/2020 Vừ A S do hám lợi đã có hành vi vận chuyển trái phép 1.570 viên Methamphetamine có khối lượng 156,69 gam. Trong lúc S đi giao ma túy thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ như sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14 giờ 30 phút ngày 25/7/2020, tại bản A, xã B, huyện C, tỉnh Sơn La; vật chứng thu giữ của vụ án; kết luận giám định loại ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu từ V1A đến V8A đều là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 4,08 gam.Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 156,69 gam; loại Methamphetamine.”.

- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

- Lời khai của ông Tòng Văn D - sinh năm 1987, trú tại: Bản A, xã B, huyện C, tỉnh Sơn La, có mặt chứng kiến việc cơ quan điều tra lập biên bản bắt quả tang đối với Vừ A S.

Với các căn cứ chứng minh trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo: Vừ A S phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự.

[3] Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Vừ A S đã có hành vi vận chuyển trái phép 1570 viên Methamphetamine có khối lượng 156,69 gam, phạm tội thuộc tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự:“Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine,MDMA hoặc XRL- 11 có khối lượng 100 gam trở lên” có khung hình phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; tội phạm về ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo được tính răn đe riêng và phòng ngừa chung, góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy trong giai đoạn hiện nay.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ngoài ra bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1,khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 250 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Đối với 152,61 gam Methamphetamine còn lại sau khi đã lấy mẫu gửi giám định, xét đây là loại ma túy Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Do bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Vừ A S phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Vừ A S 20 (Hai mươi) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 25/7/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một hộp vật chứng còn nguyên niêm phong, một mặt hộp vật chứng có ghi dòng chữ: “Vật chứng lưu kho vụ Vừ A S - Vận chuyển trái phép chất ma túy, bắt ngày 25/7/2020 tại bản A, xã B, huyện C, tỉnh Sơn La, bên trong có các viên nén màu hồng có tổng khối lượng 152,61 gam được đựng trong 02 túi nilon màu hồng và 06 túi nilon màu xanh ban đầu ký hiệu từ V1B đến V8B + 01 túi nilon màu vàng + 01 mảnh giấy gói ban đầu màu trắng + 01 giấy dán niêm phong ban đầu”. Tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong trên giấy niêm phong có dòng chữ: Công an tỉnh Sơn La – giấy niêm phong số 010600 và có 02 dấu tròn đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện C cùng chữ ký dòng ghi rõ họ tên của các thành phần tham gia niêm phong của Phạm Kiên Trung, Vừ A S, Quàng Văn S, Quàng Văn Y, Trần Văn T, Tòng Văn R, Đinh Văn H.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 32/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và S dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vừ A S.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 23/12/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về