Bản án 33/2020/HS-ST ngày 21/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 21/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/HSST-QĐ ngày 12 tháng 02 năm 2020, đối với bị cáo:

Hoàng Thị Mỹ L, sinh ngày 23 tháng 4 năm 2001 tại Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Xóm Đ, xã Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa:

9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn B và bà Trần Thị L, chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người bị hại:

1, Chị Nguyễn Thị Ánh T, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn X, xã L, huyện L, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

2, Cháu Lê Nguyễn Tùng Dương, sinh ngày 06/10/2003; trú tại: Phố L, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cháu Dương: Ông Trần Diện - Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Anh M, sinh ngày 18/8/2005:

nơi cư trú: Khu HC15, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cháu Minh: Bà Kim Hồng Thanh - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17giờ30 phút ngày 05/10/2019 Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M ngồi uống nước tại Vườn hoa Chợ Tổng, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì L rủ M đi lang thang xem ai có tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền tiêu sài, Minh đồng ý. Sau đó, M điều khiển xe máy BKS 19H3- 5601 chở L đi từ vườn hoa Chợ Tổng đến khu vực đường B, phường L, khi đi qua quán ăn Oulim Hàn Quốc trên đường B thì M nhìn thấy trước cửa quán ăn này có dựng 01 chiếc xe đạp địa hình màu vàng trắng, nhãn hiệu ENSOLEILLE của chị Nguyễn Thị Ánh T là nhân viên của quán ăn Hàn Quốc Onlim, đầu xe hướng vào quán ăn, đuôi xe hướng ra đường B, xe bị khoá bánh sau bằng khoá dây. M nói với L “có chiếc xe kìa, lấy không?”, ý là hỏi L xem có lấy trộm xe không thì L bảo M “lấy xe đi”. Sau đó, L và M đổi lái, L điều khiển xe máy BKS: 19H3-5601 chở M quay lại đến đối diện quán ăn Oulim Hàn Quốc thì dừng xe, M xuống xe đi bộ sang đường đến vị trí chiếc xe đạp địa hình dựng trước cửa quán ăn Oulim, còn L ngồi trên xe máy 19H3-5601 cảnh giới. Quan sát xung quanh không có người, M nhấc bánh sau chiếc xe đạp địa hình và đẩy sang đường về phía L đang đứng. Sau đó, L điều khiển xe máy BKS: 19H3-5601, còn M dắt chiếc xe đạp vừa trộm cắp được cùng nhau đi vào khu vực công trình đang xây dựng ở ngõ đối diện quán ăn Oulim thì dừng lại tìm cách phá khoá. Khi cả hai đang loay hoay tìm cách phá khoá thì bị Cơ quan Công an phát hiện và đưa về trụ sở làm việc, lập biên bản thu giữ tài sản, gồm: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, BKS: 19H3-5601 đã qua sử dụng; 01 đăng giấy ký xe máy BKS:

19H3-5601; 01 chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu ENSOLEILLE màu vàng và 01 khoá dây màu xanh khoá bánh sau xe đạp.

Cùng ngày, chị Nguyễn Thị Ánh T có đơn trình báo Cơ quan Công an về việc chị bị kẻ gian trộm cắp 01 chiếc xe đạp địa hình tại quán ăn Hàn Quốc trên đường Bà Triệu, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên. Trị giá tài sản khoảng 6.000.000đ.

Tại Bản kết luận số 198/KL-HĐĐG ngày 18/10/2019, kết luận chiếc xe đạp trên trị giá 5.000.000đ.

Quá trình điều tra, Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M khai nhận, ngoài hành vi trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Ánh T như trên, trước đó L và M còn cùng nhau thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản tại Trung tâm Anh ngữ Havina trên đường Nguyễn T, phường L, thành phố V. Cụ thể: khoảng 19 giờ ngày 12/9/2019, Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M ngồi uống nước ở vườn hoa Chợ Tổng. Tại đây L rủ M đi lang thang xem ai có tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền tiêu sài, M đồng ý. Sau đó, L điều khiển xe máy BKS: 19H3-5601 của L chở M ngồi sau đi loanh quanh khu vực phường L. Đến khoảng 20 giờ 20 phút cùng ngày, khi đi qua trung tâm tiếng anh Havina đường Nguyễn T, phường L, thành phố V thì M nhìn thấy 01 chiếc xe đạp địa hình màu xanh đen, nhãn hiệu GIANT của anh Lê Nguyễn Tùng D là học viên của trung tâm đang dựng trước cửa trung tâm Havina, theo chiều đầu hướng về phía đi K, đuôi xe hướng về ngã 5 G. Lúc này, M chỉ cho L chiếc xe và nói “ có lấy không ạ?”, L bảo “có”. Sau đó, L dừng xe sát lề đừng bên phải đường Nguyễn T hướng đi K, cách trung tâm Havina khoảng 10m. Quan sát xung quanh không có người, Minh xuống xe máy, đi bộ đến vị trí dựng chiếc xe đạp địa hình dắt xe ra đường rồi lên xe đạp về hướng đi K. M đi được khoảng 10-15m thì L đi xe máy lên và kéo M cùng chiếc xe đạp vừa trộm cắp được về đi đến quán nét PG nét ở Làng B, phường L rồi để chiếc xe đạp vừa trộm cắp được ở trước cửa quán nét và đi về nhà. Sau đó, L lên mạng facebook đăng tìm người mua xe thì có người hỏi mua và hẹn gặp ở Cổng trường Cao đẳng nghề Việt Đức để giao dịch, mua bán. Đến khoảng 8 giờ ngày 13/9/2019 L và M mang xe đạp trên đến cổng trường Cao đẳng nghề Việt Đức và bán cho 01 nam giới không quen biết với giá 1.100.000đ. Sau khi bán được xe L đã xóa bài rao bán và tin nhắn với người ngày trên facebook. Số tiền bán xe L và M cùng nhau tiêu sài hết.

Ngày 15/10/2019, anh Lê Nguyễn Tùng D có đơn trình báo Cơ quan Công an về việc ngày 12/9/2019, tại trung tâm ngoại ngữ Havina trên đường Nguyễn T, thuộc phường L, thành phố V, anh bị kẻ gian trộm cắp 01 chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu Giant, trị giá xe khoảng 7.500.000đ.

Tại Bản kết luận số 224/KL-HĐĐG ngày 04/12/2019, kết luận chiếc xe đạp trên trị giá 4.800.000đ.

Quá trình điều tra, Hoàng Thị Mỹ L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ thu thập được.

Tại Cáo trạng số: 19/CT-VKSTPVY-VP ngày 09/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Hoàng Thị Mỹ L về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa, bị cáo Hoàng Thị Mỹ L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Thị Mỹ L từ 09 tháng đến 01 năm tù. Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xác nhận Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho chị Nguyễn Thị Ánh T 01 chiếc xe đạp địa hình, nhãn hiệu Ensoleille chị Trần Thị L 01 xe máy BKS 19H3- 5601. Xác nhận tại phiên tòa bị cáo Hoàng Thị Mỹ L đã bồi thường cho cháu Lê Nguyễn Tùng D số tiền 4.800.000đ. Còn đối với Nguyễn Anh M, sinh ngày 18/08/2005 là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Lê Nguyễn Tùng D cùng L. Tổng trị giá tài sản M cùng L trộm cắp là 9.800.000đ, tuy nhiên thời điểm phạm tội M mới 14 tuổi 25 ngày, M chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Do vậy chưa phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản của mình. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo đối với M về hành vi trộm cắp tài sản là đúng quy định của pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại: Ông Trần Diện - Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc có quan điểm: Nhất trí với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Hoàng Thị Mỹ L về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại phiên tòa bị cáo và gia đình đã bồi thường cho cháu D số tiền 4.800.000đ (bốn triệu tám trăm ngàn đồng) nộp tại Cơ quan thi hành án thành án thành phố V nên không đề nghị thêm gì nữa và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Kim Hồng Thanh - Trợ giúp viên pháp lý có quan điểm: Nhất trí với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Hoàng Thị Mỹ L về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Thị Mỹ L tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Trong hai ngày 12/09/2019 đến 05/10/2019, Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên, chiếm đoạt tài sản có tổng trị giá là 9.800.000đ. Cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ 20 phút, ngày 12/09/2019, tại trước cửa trung tâm anh ngữ Havina trên đường Nguyễn Tất Thành, thuộc phường Li, thành phố, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của anh Lê Nguyễn Tùng D, Linh và M đã cùng nhau trộm cắp 01 chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu Giant của anh D. Trị giá tài sản trộm cắp là 4.800.000đ. Tài sản không thu giữ được.

Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 05/10/2019, tại trước cửa quán ăn Oulim trên đường B, thuộc phường L, thành phố V, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chị Nguyễn Thị Ánh T, L và M đã cùng nhay trộm cắp 01 chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu Ensoleille của chị T. Trị giá tài sản trộm cắp là 5.000.000đ. Tài sản đã thu hổi và trả lại cho bị hại.

Hành vi nêu trên của bị cáo Hoàng Thị Mỹ L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù đến 03 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương và bất bình trong nhân dân. Do đó, cần phải xử lý thật nghiêm minh nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo Hoàng Thị Mỹ L tuổi còn trẻ là người hiểu biết nhất định về pháp luật, bản thân có sức khỏe nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân để làm ăn chân chính mà lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với mục đích để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết giảm nhẹ như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và đã tác động gia đình bồi thường cho cháu D số tiền là 4.800.000đ để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng: Trong vụ án này bị cáo phạm tội 02 lần nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Đối với chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu Ensoleille, màu vàng trắng và chiếc khoá dây dùng để khoá bánh xe đạp mà Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M trộm cắp xác định là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Ánh T. Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho chị T, chị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với 01 chiếc xe đạp địa hình nhãn hiệu Giant, màu xanh đen mà Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M trộm cắp của anh Lê Nguyễn Tùng D ngày 12/09/2019 tại trung tâm ngoại ngữ Havina trên đường Nguyễn T, phường L, thành phố V. Quá trình điều tra, xác định nguồn gốc xe là do ông Lê Hồng M là bố của anh D mua cho anh làm phương tiện đi lại, Cơ quan điều tra không thu giữ được do L và M khai đã bán chiếc xe đạp trên cho 01 người nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ với giá 1.100.000đ. Số tiền này L và M đã cùng nhau tiêu sài hết. Anh D yêu cầu L và Minh phải bồi thường số tiền theo giá trị định giá của chiếc xe là đúng quy định của pháp luật.

Đối với cháu Lê Nguyễn Tùng D bị L và M trộm cắp chiếc xe đạp địa hình Giant, quá trình điều tra không thu giữ được xe nên anh D yêu cầu L và M phải bồi thường cho anh D giá trị chiếc xe đạp trên theo định giá là 4.800.000đ. Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Thị Mỹ L đã nhận trả toàn bộ số tiền theo giá trị định giá của chiếc xe và đã tác động gia đình bồi thường cho cháu D và mẹ bị cáo đã bồi thường cho cháu D số tiền là 4.800.000đ nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

Đối với người nam giới mua lại chiếc xe đạp địa hình Giant do Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M trộm cắp mà có, quá trình điều tra L và M khai sau khi L đăng bán chiếc xe đạp này trên mạng xã hội Facebook thì có 01 người nam giới không quen biết hỏi mua và hẹn gặp ở cổng Trường cao đẳng Nghề Việt Đức, phường L, thành phố V để giao dịch, mua bán. Sau khi bán được xe Ln đã xoá hết tin nhắn giao dịch với người nam giới này trên facebook, do giao dich mua bán diễn ra nhanh nên L và M không nhớ đặc điểm nhận dạng của người này thế nào. Ngoài lời khai của L và M thì không có tài liệu, chứng cứ gì, do vậy Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra, xử lý là đúng quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe máy BKS 19H3-5601, ngày 12/09/2019 và ngày 05/10/2019, Hoàng Thị Mỹ L và Nguyễn Anh M sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Lê Nguyễn Tùng D. Quá trình điều tra xác định chiếc xe này là của chị Trần Thị L là mẹ đẻ của L. Bà L mua lại chiếc xe máy này của anh Lê Văn N ở xã Bình B, huyện P, tỉnh Phú Thọ với giá 3.700.000đ để làm phương tiện đi lại. Ngày 12/09/2019 và ngày 05/10/2019, chị Lan để xe máy có cắm sẵn chìa khoá xe ở nhà thì Linh đã tự ý lấy xe đi chơi rồi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Chị L không biết việc L sử dụng xe máy BKS19H3-5601 của mình làm phương tiện đi trộm cắp tài sản nên cần trả lại cho chị Lan là đúng quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Anh M, sinh ngày 18/08/2005 là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Lê Nguyễn Tùng D cùng Linh. Tổng trị giá tài sản M cùng L trộm cắp là 9.800.000đ, tuy nhiên thời điểm phạm tội Minh mới 14 tuổi 25 ngày, M chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Do vậy chưa phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản của mình. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo đối với M về hành vi trộm cắp tài sản là đúng quy định của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Xác nhận Cơ quan điều tra Công an thành phố V lại cho chị Trần Thị L 01 xe máy BKS: 19H3-5601 là hợp pháp.

Xác nhận bị cáo Hoàng Thị Mỹ L đã bồi thường cho cháu Lê Nguyễn Tùng D số tiền 4.800.000đ nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự thành phố V.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Mỹ L 01 (một) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Áp dụng khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho cháu Lê Nguyễn Tùng D số tiền 4.800.000đ số Biên lai số AA/2015/0004841 ngày 21/2/2020 do mẹ bị cáo L nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự thành phố V.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV- QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng Thị Mỹ L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 21/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về