Bản án 33/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 392/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 464/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. TRƯƠNG MINH N, sinh ngày 12/11/19XX tại P T; ĐKHKTT và nơi cư trú: Khu X, xã T Đ, thành phố V T, tỉnh Phú Thọ; trình độ văn hóa: lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Khắc T và bà Trần Thị B; có vợ Hoàng Thị L và 02, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo ra đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/8/2018, có mặt.

2. TRẦN TUẤN A, sinh ngày 12/11/19XX tại T H; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn T L, xã C C, huyện N C, tỉnh T H; trình độ văn hóa: lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H1 và bà Nguyễn Thị O; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo ra đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/8/2018, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Trương Minh N:

Đỗ Thị Hương - Luật sư Văn phòng luật sư Bảo Nhân thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Tuấn A:

Ông Nguyễn Đình Anh Dũng - Luật sư Công ty luật hợp danh Thiên Quang thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.

* Bị hại:

1. Anh Dương Văn T, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Xóm T, xã T L, huyện L G, tỉnh Bắc Giang, vắng mặt.

2. Anh Thái Bá G, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Xóm X, xã D T, huyện D C, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.

3. Ông Phạm Đình H, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Thôn T L, xã T L, huyện T T, tỉnh Thái Bình, vắng mặt.

4. Ông Bùi Văn T1, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Thôn X, xã Q L, huyện H B, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Dương Văn S, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Thôn T, xã T L, huyện L G, tỉnh Bắc Giang, có mặt.

2. Anh Lê Nam Th, sinh năm 19XX; nơi cư trú: X M T B, Tổ Y, phường Q T, thành phố P, tỉnh Gia Lai, vắng mặt.

3. Ông Trần Văn H1, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Thôn T L, xã C C, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Minh N (sinh năm 19XX; trú tại khu X, xã T Đ, thành phố V T, tỉnh Phú Thọ) là đối tượng không có việc làm ổn định. KHg năm 2012 do nợ nần nhiều nên N nảy sinh ý định bán thận để lấy tiền ăn tiêu và trả nợ. N đến trung tâm ghép tạng tại Bệnh viện Việt Đức tìm hiểu và nắm được quy trình làm hồ sơ để được hiến và ghép thận. Sau khi tìm hiểu, N biết có nhiều người bị suy thận phải chạy thận nhân tạo có nhu cầu tìm người hiến thận; nếu tìm được người hiến thì người có nhu cầu ghép thận (bệnh nhân) sẽ lo toàn bộ chi phí ăn ở khám, xét nghiệm và trả một kH tiền cho người hiến thận. Do đó, N bỏ ý định hiến thận và nảy sinh ý định làm môi giới cho người hiến thận và bệnh nhân để hưởng lợi. N lên mạng Internet tìm kiếm thông tin về những người có ý định hiến thận. Sau khi tìm được người hiến, N liên hệ với người có nhu cầu ghép thận để họ đưa tiền cho N chi phí cho người hiến thận ăn ở và đưa họ đi khám, xét nghiệm tại Bệnh viện. Để thuận tiện, N thuê nhà ở trọ tại số 325, phố Kim Ngưu, phường Thanh Lương, Hai Bà Trưng, Hà Nội và thuê nhà nghỉ Hồng Ngọc ở tại số 250, phố Lê Thanh Nghị, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để làm nơi cho người hiến thận ăn ở tập trung tại đây. N hứa hẹn với người bệnh sẽ tìm được người hiến thận và làm hồ sơ cho người bệnh và người hiến nộp vào các Bệnh viện để người bệnh được ghép thận. Do cần người đưa các bệnh nhân và người hiến đến Bệnh viện đăng ký, đóng tiền để lấy chỉ định khám xét nghiệm của bác sĩ tại Bệnh viện đa khoa quốc tế VinMec Times City, chi nhánh công ty cổ phần bệnh viện đa khoa quốc tế VinMec (địa chỉ tại số 458, phố Minh Khai, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) nên N thuê Trần Tuấn A (sinh năm 19XX; trú tại thôn T L, xã C C, huyện N C, Thanh Hóa), Lê Nam Th (sinh năm 19XX; trú tại số X, phố M T B, tổ Y, phường Q T, thành phố P, tỉnh Gia Lai) và Phạm Văn H2 (sinh năm 19XX; trú tại tổ X, khu phố P T, thị trấn P B, huyện X M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), là những người có ý định hiến thận để làm công việc đưa người đi khám, xét nghiệm cho N tại Bệnh viện VinMec. Quá trình làm hồ sơ nộp vào các Bệnh viện, do người hiến và người bệnh thường làm Thếu các loại giấy tờ theo quy định nên N thuê đối tượng „„H3‟‟ (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) làm giả con dấu, tài liệu để cho vào trong các hồ sơ của họ. Do đã nhận tiền của người bệnh nhưng không lo được ghép thận và bị người bệnh thúc giục nhiều lần nên N đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của người bệnh để tiêu xài cá nhân, cụ thể như sau :

KHg đầu tháng 06/2018, anh Dương Văn T (sinh năm 19XX; trú tại xóm T, xã L T, huyện L G, tỉnh Bắc Giang) đã liên hệ với N và nói đang bị suy thận, muốn nhờ N tìm người hiến thận để ghép thận. Do đang cần tiền nên N bàn với Trần Tuấn A về việc sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của anh T. N hẹn anh T đến Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec (Bệnh viện VinMec) để thỏa thuận. Ngày 02/6/2018, N thuê một người đàn ông làm nghề xe ôm tên là Thương (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đóng giả là người hiến thận cho anh T, đi cùng N đến Bệnh viện Vinmec gặp anh T và ông Dương Văn S (sinh năm 19XX; là bố anh T). Tại đây, N nói với anh T là ông Thương sẽ hiến thận cho anh T. Sau đó, N thỏa thuận với anh T về chi phí tìm người hiến thận và làm hồ sơ nộp vào Bệnh viện Vinmec để anh T được ghép thận là 550.000.000 đồng, yêu cầu phải nộp trước tiền viện phí và làm hồ sơ là 150.000.000 đồng, anh T đồng ý. Sáng ngày 04/6/2018, anh T và ông S mang theo tiền đến gặp N tại Bệnh viện VinMec. N lấy chứng minh nhân dân của anh T đăng ký khám tổng quát cho anh T tại Bệnh viện VinMec. Trong khi anh T đi khám, ông S đưa cho N 150.000.000 đồng và yêu cầu N phải có biên lai thu tiền. Do trước đó N đã bàn bạc với Tuấn A nên khi ông S yêu cầu, N dùng điện thoại di động của mình chụp ảnh một „„BIÊN LAI THU TIỀN TẠM ỨNG‟‟ của Bệnh viện VinMec rồi gửi file ảnh qua email (thư điện tử) cho Tuấn A để Tuấn A sử dụng phần mềm photoshop chỉnh sửa rồi in ra một giấy „„BIÊN LAI THU TIỀN TẠM ỨNG‟‟ giả của Bệnh viện VinMec, nội dung ghi phần khách hàng là anh Dương Văn T đã đóng số tiền 150.000.000 đồng. Chiều cùng ngày, N đưa „„BIÊN LAI THU TIỀN TẠM ỨNG‟‟ giả của Bệnh viện VinMec cho ông S và bảo anh T cùng ông S cứ về nhà chờ kết quả. Đến tối ngày 05/6/2018, N điện thoại cho anh T yêu cầu anh đưa tiếp 50.000.000 đồng để làm hồ sơ ghép thận. Ngày 06/6/2018, anh T đến Bệnh viện VinMec gặp N thì N bảo Lê Nam Th đưa chỉ định để anh T đi khám siêu âm tim, sau khi khám xong thì đưa anh T đến quán cà phê ở số nhà 25, phố Lạc Trung, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội gặp N. Tại đây, anh T đưa cho N 50.000.000 đồng và N viết cho anh T 01 „„Giấy vay tiền‟‟ với nội dung đã nhận của anh T số tiền 150.000.000 đồng và 50.000.000 đồng để lo làm thủ tục ghép thận cho anh T. Sau khi nhận tiền, N hẹn anh T phải khám tiếp nội soi dạ dày. Ngày 18/6/2018, N hẹn anh T đến Bệnh viện VinMec khám nội soi dạ dày và yêu cầu anh T đưa tiếp 90.000.000 đồng để làm hồ sơ. Để anh T tin tưởng, N đã gọi Tuấn A đến nhà trọ của N ở số nhà 325, phố Kim Ngưu, phường Thanh Lương, Hai Bà Trưng, Hà Nội để bàn bạc. Khi Tuấn A đi cùng Th đến thì Th ngồi ngoài quán nước, còn Tuấn A vào trong nhà bàn bạc với N. N bảo Tuấn A đóng giả trợ lý bác sĩ Bệnh viện VinMec mang theo hồ sơ nói là của anh Thương đến gặp anh T để thông báo cho anh T biết chỉ số HLA (chỉ số kháng nguyên) của anh T phù hợp để ghép thận với anh Thương nhưng thực tế anh Thương không có hồ sơ khám, xét nghiệm. Sau khi bàn bạc xong, Th cùng Tuấn A đến Bệnh viện VinMec. Th đưa anh T và ông S đến quá cà phê tại số 458, phố Minh Khai, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để gặp N. Tại đây, N giả vờ đi ra ngoài gọi điện cho bác sĩ. Một lúc sau, Tuấn A cầm theo hồ sơ đến quán, giới thiệu là trợ lý bác sĩ Bệnh viện VinMec và nói chỉ số HLA của anh T phù hợp để ghép thận với anh Thương. Sau khi Tuấn A đi khỏi quán, anh T đưa cho N 90.000.000 đồng và N nói đây là số tiền để lo lót bác sĩ tại Bệnh viện VinMec cho anh T sớm lên bàn mổ ghép thận. Sau khi nhận tiền, N viết cho anh T một „„Giấy vay tiền‟‟ với nội dung đã nhận của anh T tổng số tiền là 290.000.000 đồng để „„lo thủ tục ghép thận cho anh T tại Bệnh viện VinMec và lên bàn mổ ghép vào ngày 05/7/2018‟‟. Để anh T tin tưởng, N đưa anh T xuống hầm để xe Bệnh viện VinMec và gọi Tuấn A xuống hầm, N đưa cho Tuấn A 50.000.000 đồng để anh T tin là N đã lo lót cho bác sĩ để anh T được lên bàn mổ sớm. Sau khi anh T ra về, N lấy lại của Tuấn A 49.000.000 đồng và N đưa cho Th 25.000.000 đồng bảo Th đi trả tiền thuê nhà nghỉ Hồng N. Sau đó, anh T một vài lần đến Bệnh viện VinMec để nội soi dạ dày nhưng không được khám. Anh T liên lạc với N thì N vẫn hứa hẹn và bảo anh T đợi. Do nghi ngờ mình bị N lừa nên ngày 25/6/2018, anh T mang „„BIÊN LAI THU TIỀN TẠM ỨNG‟‟ do N đưa trước đó đến Bệnh viện VinMec hỏi thì được biết là Biên lai giả và anh T không có hồ sơ ghép thận tại Bệnh viện VinMec. Anh T liên lạc với N thì N hứa sẽ trả lại tiền cho anh T. Tại Bệnh viện, anh T gặp lại Tuấn A thì Tuấn A nói phong bì N đưa để lo lót bác sĩ, Tuấn A đã trả lại cho N. Do vẫn tin Tuấn A là trợ lý bác sĩ nên thời gian sau đó, anh T liên lạc và nhờ Tuấn A lo ghép thận cho mình. Ngày 10/7/2018, Tuấn A liên lạc với anh T và hứa sẽ lo được cho anh T ghép thận tại Bệnh viện Quân y 103 với chi phí là 600.000.000 đồng và được trừ vào số tiền 290.000.000 đồng trước đó anh T đã đưa cho N nên anh T đồng ý. Ngày 11/7/2018, anh T và ông S đến Bệnh viện Quân Y 103 gặp Tuấn A. Hai bên thỏa thuận Tuấn A sẽ lo ghép thận cho anh T và anh T phải đưa trước cho Tuấn A 60.000.000 đồng. Ngày 13/7/2018, anh T đến Bệnh viện Quân Y 103 gặp Tuấn A và Tuấn A đưa anh T đi khám xét nghiệm. Sau khi khám xong, anh T đưa cho Tuấn A 60.000.000 đồng tại quán cà phê đối diện Bệnh viện Quân Y 103. Khi nhận tiền, Tuấn A đã viết 01 „„Giấy vay tiền‟‟ có nội dung nhận 60.000.000 đồng để lo ghép thận cho anh T. KHg 10 ngày sau, Tuấn A hẹn anh T đến Bệnh viện Quân y 103 để khám viêm gan B và vay thêm của anh T 5.000.000 đồng. Đến ngày 01/8/2018, Tuấn A lại hẹn anh T đến Bệnh viện Quân Y 103 để gặp người hiến thận là Quyền Anh T (sinh năm 19XX; trú tại xã B B, huyện P N, tỉnh Phú Thọ) và đưa Quyền Anh T đi khám. Sau đó, Tuấn A bảo anh T về nhà chờ đợi. Do hồ sơ của Quyền Anh T thiếu giấy tờ liên quan nên Tuấn A nảy sinh ý định làm giả. Tối ngày 04/8/2018, tại phòng trọ của Tuấn A tại số 60 ngõ 108 đường Trần Phú, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Tuấn A in các mẫu hình dấu và gọi Th đến phòng trọ bảo Th làm ra các con dấu để làm giả hồ sơ của Quyền Anh T nhưng do Quyền Anh T không có ý định hiến thận nữa nên Tuấn A chưa sử dụng các con dấu này để làm giả hồ sơ.

Ngày 11/7/2018, Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec (đại diện là anh Trần Hoàng N sinh năm 19XX; trú tại số nhà X, ngách Y, ngõ Z, đường X Đ, phường X T, quận B T L, Hà Nội) có đơn gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội tố cáo Trương Minh N có hành vi làm giả Biên lai thu tiền của Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Dương Văn T.

Ngày 06/8/2018, Trương Minh N và Trần Tuấn A đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đầu thú và khai nhận ngoài hành vi trên, cả hai còn thực hiện các vụ lừa đảo khác, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khong đầu năm 2017, anh Thái Bá G (sinh năm 19XX; trú tại xã D T, huyện D C, tỉnh Nghệ An) bị ung thư gan nên đã liên lạc với Trương Minh N nhờ N tìm người hiến gan để ghép. Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên N tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh G bằng cách nói dối là N có khả năng tìm được người hiến gan cho anh G có cùng nhóm máu và các chỉ số phù hợp nên anh G đồng ý. N yêu cầu anh G cung cấp hồ sơ cùng một số thông tin để N tìm người hiến gan có cùng nhóm máu. N bảo Trần Tuấn A in cho 01 hợp đồng giữa N và anh G với nội dung N lo ghép gan cho anh G. Ngày 10/7/2017, N hẹn anh G ra quán cà phê ở phố Hồ Đắc Di, quận Đống Đa, Hà Nội để nói chuyện. Sau khi gặp anh G, N nói muốn ghép gan tại bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec phải mất chi phí 1.500.000.000 đồng. Anh G đồng ý ghép gan thì N yêu cầu anh G phải ứng trước số tiền 150.000.000 đông để lo thủ tục giấy tờ pháp lý tại Bệnh viện VinMec. Sau khi nhận số tiền trên và để tạo lòng tin với anh G, N đưa cho anh G bản hợp đồng với nội dung N phải thực hiện công việc lo thủ tục ghép gan cho anh G tại Bệnh viện đa khoa quốc tế VinMec từ lúc anh G nộp hồ sơ và cam kết trong vòng 01 tháng sẽ tìm được người hiến gan và lo thủ tục ghép gan cho anh G. Tuy nhiên sau đó, N không lo thủ tục ghép gan và đã chiếm đoạt sử dụng cá nhân hết số tiền 150.000.000 đồng của anh G. Ngày 28/8/2018, anh Thái Bá G đến Công an quận Hai Bà Trưng trình báo và giao nộp 01 bản hợp đồng (bản gốc) nội dung Trương Minh N thực hiện lo thủ tục ghép gan cho Thái Bá G với chi phí 1.500.00.000 đồng; thanh toán làm hai đợt, trong đó đợt 01 là 150.000.000 đồng, đợt 02 sẽ thanh toán nốt trước khi bệnh nhân lên bàn phẫu thuật. Hợp đồng có chữ ký xác nhận của Trương Minh N và Trần Tuấn A.

Đi với việc lừa đảo chiếm đoạt tiền của anh Thái Bá G, Tuấn A và N đều khai Tuấn A chỉ in giúp N hợp đồng chứ không biết N có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh G, N không bàn bạc hoặc chia tiền chiếm đoạt được của anh Thái Bá G cho Tuấn A.

Vụ thứ hai: Khoảng tháng 10/2017, ông Phạm Đình H (sinh năm 19XX; trú tại thôn T L, xã T L, huyện T T, tỉnh Thái Bình) liên lạc với Trương Minh N nhờ tìm người hiến thận để ghép thận con trai là anh Phạm Đình D (sinh năm 19XX) bị suy thận. N đồng ý và nói với ông H chi phí ghép thận tại Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec với giá là 500.000.000 đồng/01 quả thận và phải đóng trước tiền viện phí là 150.000.000 đồng, ông H đồng ý. Để tạo lòng tin với ông H nên ngày 06/12/2017, N yêu cầu ông H đưa anh Diện đến Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec để làm các thủ tục xét nghiệm. Sau khi làm các thủ tục xét nghiệm xong, N yêu cầu ông H đưa số tiền 150.000.000 đồng để lo việc ghép thận. Khi nhận tiền, N đã viết cho ông H 01 giấy vay tiền và hứa khi nào tìm được người hiến thận sẽ gọi điện thoại để ông H đưa anh D lên ghép thận. Tuy nhiên sau đó, N không lo thủ tục ghép thận cho anh D và chiếm đoạt sử dụng hết số tiền 150.000.000 đồng của anh H. Ngày 11/9/2018, ông H đã đến Công an quận Hai Bà Trưng trình báo sự việc nêu trên.

Vụ thứ ba: Khong cuối tháng 03/2018, qua giới thiệu của người quen nên ông Bùi Văn T1 (sinh năm 19XX; trú tại thôn X, xã Q L, huyện H B, tỉnh Quảng Ninh) là người bị suy thận, đã liên lạc với Trương Minh N nhờ N tìm người hiến thận để ghép. N đồng ý tìm người bán thận và lo thủ tục ghép thận cho ông T1 tại Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec với giá 550.000.000 đồng/01 quả thận và phải đóng trước tiền viện phí là 150.000.000 đồng, anh T1 đồng ý. Ngày 03/4/2018, N đi xuống nhà ông T1 để nhận tiền. Khi xuống tới nơi, ông T1 đưa trước cho N số tiền 150.000.000 đồng. Để anh T1 tin tưởng, N đã làm 01 hợp đồng về việc ghép thận cho ông T1. Sau khi nhận tiền của ông T1, N đã không lo thủ tục về việc ghép thận cho ông T1 tại Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec và sử dụng ăn tiêu hết số tiền đã nhận của ông T1.

Tại Cơ quan điều tra, ông Bùi Văn T1 đã giao nộp 01 bản hợp đồng phô tô có nội dung Trương Minh N thực hiện lo thủ tục ghép thận cho Bùi Văn T1 tại Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec với chi phí 550.000.000 đồng; thanh toán đợt 01 là 150.000.000 đồng, đợt 02 là 400.000.000 đồng có chữ ký xác nhận của Trương Minh N và Phạm Ngọc Tr.

Ngoài ra ngày 08/6/2018, anh Vũ Hà S1 (sinh năm 19XX; trú tại Phòng X - CTY, chung cư N S, phường N L, quận L B, Hà Nội đến cơ quan điều tra trình báo: Khoảng tháng 10/2017, người quen của anh S1 là chị ONSAVATH LATSAMEE (sinh năm 19XX; Quốc tịch Lào; tên thường gọi là H3) liên lạc với Trương Minh N nhờ N tìm người hiến và lo thủ tục ghép thận cho chị H3. N và chị H3 thỏa thuận chi phí ghép thận là 900.000.000 đồng, đưa trước 250.000.000 đồng. Sau đó, N bảo chị H3 vào Bệnh viện Trung ương Huế để khám xét nghiệm. Tại đây, N thuê 02 người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) đóng giả người hiến thận và đưa 02 người này đến gặp chị H3 để chị H3 tin tưởng. Sau đó, chị H3 đã nhờ anh Vũ Hà S1 là em trai của anh rể chị H3) chuyển số tiền 250.000.000 đồng vào tài khoản của N. Sau khi khám tại Bệnh viện Trung ương Huế, N bảo chị H3 về nhà đợi kết quả. Một thời gian sau, N bảo chị H3 đến Bệnh viện VinMec để khám xét nghiệm và làm thủ tục ghép thận. Khoảng tháng 03/2018, N đến nhà anh S1 và được anh S1 đưa thêm số tiền 230.000.000 đồng. Sau đó, N nhiều lần bảo chị H3 đến khám xét nghiệm tại Bệnh viện VinMec và nhận tiền của anh S1. Ngày 08/5/2018, anh S1 đưa cho N 50.000.000 đồng và N viết một “Giấy biên nhận và cam kết” nhận của anh S1 tổng số tiền là 450.000.000 đồng. Ngày 25, 26/5/2018, anh S1 đưa thêm cho N 200.000.000 đồng và N viết 01 “Giấy biên nhận” đã nhận của anh S1 tổng số tiền là 650.000.000 đồng. Sau đó, N không lo được thủ tục ghép thận cho chị H3 và chiếm đoạt số tiền trên của chị H3. Hiện tại, do chị H3 đã về nước và chưa đến trình báo nên Cơ quan điều tra ra quyết định tách tài liệu liên quan đến hành vi trên của N để xử lý sau.

*Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng sau:

- Thu giữ của Trương Minh N: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone mặt lưng màu xám, mặt trước màu đen, số imei 254393064442065, lắp số sim 096222XXXX.

- Thu giữ của Trần Tuấn A: 01 xe máy biển kiểm soát 36B6-567.XX, hiệu Honda Vision, số máy 0875175, số khung 901514 cùng 01 dấu hình tròn, chất liệu keo polime, màu cam, in chữ “CÔNG AN XÃ BÌNH BỘ  CÔNG AN H.PHÚ NINH T. PHÚ THỌ” và hình huy hiệu Công an nhân dân, kích thước đường kính khoảng 03cm; 01 dấu hình tròn, chất liệu keo polime, màu cam, in chữ “CÔNG AN XÃ GIA THỦY  CÔNG AN H.NHO QUAN T. NINH BÌNH” và hình huy hiệu Công an nhân dân, kích thước đường kính khoảng 03cm; 02 dấu hình tròn, chất liệu keo polime, màu cam, in chữ “ U.B.N.D XÃ BÌNH BỘ H.PHÙ NINH T. PHÚ THỌ” và hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kích thước đường kính khoảng 3,5 cm;

01 dấu hình tròn, chất liệu keo polime, màu cam, in chữ “ U.B.N.D XÃ GIA THỦY H.NHO QUAN T. NINH BÌNH” và hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kích thước đường kính khoảng 3,5 cm cùng 01 dấu tên, chất liệu keo polime, màu cam, in chữ “ NGUYỄN QUỐC TUẤN” kích thước kHg 5x0,5cm; 01 dấu tên, chất liệu keo polime, màu cam, in chữ “TRƯƠNG TIẾN DŨNG” kích thước khoảng 5x1cm; 01 dấu tên, chất liệu keo polime, màu cam, in chữ “ĐINH TRUNG PHỤNG” kích thước khoảng 5x1cm; 01 bộ hồ sơ của anh Phạm Văn L sinh năm 19XX, trú tại xã G H, huyện G T, tỉnh Nam Định; 01 bộ hồ sơ của anh Trần Văn K sinh năm 19XX, trú tại thôn Đ Q, xã B S, huyện A T, tỉnh Hưng Yên; 01 bộ hồ sơ của anh Vàng A C sinh năm 19XX, trú tại xã Q K, huyện B X, tỉnh Lào Cai; 01 bộ hồ sơ kết quả khám tại Bệnh viện 103 của anh Dương Văn T sinh năm 19XX, trú tại thôn T, xã T L, huyện L G, tỉnh Bắc Giang; 01 bộ hồ sơ kết quả khám của anh Quyền Anh T sinh năm 19XX, trú tại huyện P N, tỉnh Phú Thọ; 01 màn hình máy tính đã qua sử dụng hiệu Sam Sung, model S22D300Hy màu đen; 01 cây máy tính đã qua sử dụng; 01 máy in màu hiệu Canon đã qua sử dụng, model G1000, số serial KKTB09031; 01 máy in nhãn hiệu HP đã qua sử dụng, model Laserjet 1200 series, số serial CNCJS 28965 và 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu IPhone 6 plus màu xám, có số imei354387065835111, lắp sim số 098182XXXX.

- Thu giữ của Lê Nam Th: 01 máy khắc dấu bằng laze hình chữ nhật đã qua sử dụng, màu đen, kích thước (50x40x30)cm, một mặt có công tắc mở màu đỏ, bằng điện tử hiển thị thời gian, tay cầm màu trắng, kéo mở khay màu đen;

02 tấm kính trong, kích thước (20x20)cm; 04 tấm nệm bằng nhựa, màu xanh kích thước (18x2)cm và 01 hộp sắt có chữ LANCER màu đỏ, kích thước (07x05)cm, bên trong có tấm lót đệm màu mực đỏ.

- Thu giữ của anh Dương Văn T: 01 giấy vay tiền đề ngày 06/06/2018 đứng tên Trương Minh N; 01 biên lai thu tiền tạm ứng số 0050116 của Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec; 01 giấy vay tiền đề ngày 18/6/2018 đứng tên Trương Minh N.

- Thu giữ của ông Dương N S: 01 giấy “BIÊN LAI THU TIỀN TẠM ƯNG” của Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec đề ngày 04/6/2018 đứng tên khách hàng Dương Văn T.

- Thu giữ của anh Thái Bá G: 01 hợp đồng đề ngày 07/10/2018 đứng tên Trương Minh N.

- Thu giữ của ông Phạm Đình H: 01 giấy vay tiền đề ngày 06/12/2017 đứng tên Trương Minh N.

- Thu giữ của ông Bùi Văn T1: 01 hợp đồng đề ngày 03/4/2018 đứng tên Trương Minh N.

- Thu giữ của anh Vũ Hà S1: 01 giấy biên nhận và cam kết đứng tên Trương Minh N, đề ngày 08/5/2018 cùng 01 giấy biên nhận đứng tên Trương Minh N, đề ngày 25/5/2018 và 01 giấy biên nhận đứng tên Trương Minh N, đề ngày 26/5/2018.

Tại Bản kết luận giám định số 6680 ngày 21/08/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

... Mẫu cần giám định: 01 Giấy vay tiền đứng tên Trương Minh N, đề ngày 18/6/2018 (ký hiệu A1) và 01 Biên lai thu tiền tạm ứng số 0050116, khách hàng đứng tên Dương Văn T, thu ngân đứng tên Phạm Thị D, đề ngày 04/6/2018 (ký hiệu A2).

- Mẫu so sánh: 01 Bản kiểm điểm đứng tên Trương Minh N, đề ngày 06/8/2018 (gồm 03 tờ - ký hiệu M1); 01 Bản mẫu chữ ký đứng tên Phạm Thị D - nhân viên thu ngân Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec, không đề ngày tháng năm (ký hiệu M2); 01 Bản mẫu hình dấu chữ nhật: “BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ VINMEC TẠM ỨNG DEPOSITED”, không đề ngày tháng năm (ký hiệu M3) và 01 Biên lai thu tiền tạm ứng đề ngày 08/8/2018 (ký hiệu M4).

Kết luận:

+ Chữ viết, chữ ký đứng tên Trương Minh N trên mẫu cần giám định (ký hiệu M1) với chữ viết, chữ ký đứng tên Trương Minh N trên mẫu so sánh (ký hiệu M1) là chữ do cùng một người viết ra và ký ra.

+ Chữ ký đứng tên Phạm Thị D trên mẫu cần giám định (ký hiệu A2) với chữ ký đứng tên Phạm Thị D trên mẫu so sánh (ký hiệu M2) không phải là chữ do cùng một người ký ra.

+ Hình dấu chữ nhật: “BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ VINMEC TẠM ỨNG DEPOSITED” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A2) là hình dấu giả, được tạo ra bằng phương pháp in màu kỹ thuật số.

+ Biên lai thu tiền tạm ứng mẫu cần giám định (ký hiệu A2) với Biên lai thu tiền tạm ứng mẫu so sánh (ký hiệu M4) không pH2 được in ra từ cùng một biểu mẫu...”.

Tại Bản kết luận giám định số 8750 ngày 22/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

... Mẫu cần giám định: 01 Giấy vay tiền đứng tên Trương Minh N, đề ngày 06/12/2018 (ký hiệu A).

2. Mẫu so sánh: 01 bản kiểm điểm đứng tên Trương Minh N, đề ngày 22/10/2018 (ký hiệu M1) và 01 Biên bản hỏi cung bị can Trương Minh N đề ngày 15/8/2018 (ký hiệu M2).

Kết luận: Chữ viết, chữ ký đứng tên Trương Minh N trên mẫu cần giám định (ký hiệu A) với chữ viết, chữ ký đứng tên Trương Minh N trên mẫu so sánh (ký hiệu M1, M2) là do cùng một người viết và ký ra...”.

Tại Bản kết luận giám định số 9525 ngày 24/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

... 1. Mẫu cần giám định: 01 Hợp đồng bên A đứng tên Trương Minh N, bên B đứng tên Thái Bá G, đề ngày 07/10/2017 (Gồm 02 tờ - ký hiệu A).

2. Mẫu so sánh: 02 Bản kiểm điểm đứng tên Trương Minh N, đề ngày 12/09/2018 (gồm 02 tờ), 27/09/2018 (ký hiệu M1, M2).

Kết luận: Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Trương Minh N dưới chữ ký trên mẫu cần giám định (ký hiệu A) với chữ ký, chữ viết đứng tên Trương Minh N trên các mẫu so sánh (ký hiệu M1, M2) là chữ do cùng một người ký và viết ra.

Tại Bản kết luận giám định số 2304 ngày 17/04/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Hà Nội kết luận: Xe máy nhãn hiệu Honda Vision đeo biển kiểm soát 36B6-567.XX gửi giám định, hiện tại có số khung RLHJF5818GY901514 và số máy JF66E-0875175 là số nguyên thủy.

Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã xác minh và xác định chiếc xe máy biển kiểm soát 36B6-567.XX là tài sản hợp pháp của anh Trần Đăng H sinh năm 19XX; trú tại thôn H L, xã C C, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa. Do đó ngày 01/7/2019, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả chiếc xe máy trên cho anh H.

Tại Cơ quan điều tra, các bị can Trương Minh N và Trần Tuấn A đã khai nhận hành vi phạm tội như trên. Lời khai của các bị can phù hợp nhau, phù hợp lời khai người bị hại và các tài liệu, vật chứng thu giữ được. Đối với việc Trương Minh N và Trần Tuấn A có hành vi làm giả biên lai thu tiền tạm ứng của chi nhánh Công ty cổ phần Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec - Bệnh viện đa khoa Quốc tế VinMec Times City. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ được biên lai giả trên do bị hại là anh Dương Văn T giao nộp. Trên biên lai giả này không có hình dấu tròn pháp nhân màu đỏ của Bệnh viện và chữ ký của người có thẩm quyền ký đóng dấu, chỉ có hình dấu chữ nhật màu xanh “BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ VINMEC TẠM ỨNG DEPOSITED”. Qua xác minh, mẫu biên lai thu tiền tạm ứng của chi nhánh công ty cổ phần Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec do Phòng chăm sóc khách hàng quản lý là mẫu nội bộ của Bệnh viện, không phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác, việc làm biên lai giả là phương thức, thủ đoạn của Trương Minh N và Trần Tuấn A đưa người bị hại là anh Dương Văn T để anh T tin tưởng giao số tiền 150.000.000 đồng cho N. Do đó, Cơ quan điều tra không xử lý đối với N và Tuấn A về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, Trương Minh N còn khai đã có hành vi môi giới thành công cho 03 cặp mua, bán thận, tại bệnh viện Vinmec là: Anh T (sinh năm 19XX, trú tại tỉnh Nam Định) với anh C (sinh năm 19XX, trú tại tỉnh Hưng Yên); Anh Q (sinh năm 19XX, trú tại tỉnh Nam Định) với anh S (sinh năm 19XX, trú tại huyện V T, tỉnh Vĩnh Phúc); Anh T (sinh năm 19XX) và anh Vũ Anh V (sinh năm 19XX, trú tại thành phố Hải Phòng) với anh Hà Văn H (sinh năm 19XX, trú tại huyện H T, tỉnh Thừa Thên - Huế). Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của những người mua, bán thận nêu trên. Do đó, Cơ quan điều tra đã quyết định tách tài liệu đối với hành vi trên của Trương Minh N để tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đi với các đối tượng Lê Nam Th và Phạm Văn H2 có hành vi đưa người có nhu cầu ghép thận và người bán thận đi xét nghiệm tại Bệnh viện theo sự chỉ đạo của Trương Minh N và Trần Tuấn A. Kết quả điều tra xác định Th và H2 chỉ là những người được N và Tuấn A trả công bằng hình thức nuôi ăn, ở và cho số tiền còn thừa sau khi Th và H2 nộp tiền phí khám, xét nghiệm tại Bệnh viện. Xét thấy, Lê Nam Th và Phạm Văn H2 là những người có ý định hiến thận, làm công cho N và Tuấn A, không biết và không bàn bạc, không được hưởng lợi cùng với N, Tuấn A nên không đồng phạm với N và Tuấn A về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không xử lý đối với Th và H2 về hành vi trên.

Đi với 06 con dấu và 05 bộ hồ sơ của các anh Phạm Văn L, Trần Văn K, Vàng A C, Quyền Anh T và Dương Văn T do Cơ quan điều tra thu giữ của Tuấn A. Qua giám định, các con dấu và tài liệu trên đều là dấu giả, hình dấu tròn và chữ ký trên các bộ hồ sơ thu giữ đều là dấu và chữ ký giả. Quá trình điều tra làm rõ, các bộ hồ sơ của các anh Phạm Văn L, Trần Văn K, Vàng A C là do N đưa cho Tuấn A, Tuấn A không làm giả tài liệu nào trong các hồ sơ này. Các bộ hồ sơ khám xét nghiệm của anh Dương Văn T và Quyền Anh T là do anh T và anh Quyền Anh T đưa lại cho Tuấn A, Tuấn A không làm giả tài liệu nào trong 02 bộ hồ sơ này. Trong 06 con dấu giả nêu trên thì Tuấn A chỉ yêu cầu Th làm giả 01 hoặc 02 con dấu nhưng Tuấn A không nhớ rõ là đã yêu cầu Th làm giả con dấu của cơ quan, tổ chức nào và chưa sử dụng các con dấu này vào việc gì. Các con dấu còn lại là do N và “H3” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) làm ra. Trương Minh N khai không làm giả con dấu, tài liệu nào trong các con dấu và các bộ hồ sơ thu được, mà do anh Vàng A C đưa cho. Lê Nam Th khai được Tuấn A chỉ đạo và đã làm giả 02 con dấu, 01 dấu hình tròn nhưng không nhớ rõ tên cơ quan tổ chức trên dấu, 01 dấu hình chữ nhật cũng không nhớ rõ tên người trên dấu. Phạm Văn H2 khai không làm giả con dấu, tài liệu nào, H2 có thấy H3 làm giả con dấu, tài liệu nhưng hiện chưa xác minh làm rõ được về H3. Nhận thấy, lời khai của Tuấn A và của Th phù hợp với nhau về việc làm ra 02 con dấu nhưng Tuấn A và Th đều không nhớ rõ là con dấu của cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong 06 con dấu nêu trên. Do chưa xác định được đối tượng tên H3 để lấy lời khai làm rõ H3 đã làm giả con dấu nào; đồng thời hiện Vàng A C vắng mặ tại nơi cư trú nên Cơ quan điều đã quyết định tách hành vi làm giả con dấu tài liệu để điều tra, xử lý sau.

Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, ông Trần Văn H (sinh năm 19XX, trú tại thôn T L, xã C C, huyện N C, Thanh Hóa, là bố của bị can Trần Tuấn A) đã tự nguyện bồi thường cho anh Dương Văn T và ông Dương Văn S số tiền 60.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho bị can Tuấn A. Hiện anh Dương Văn T và ông Dương Văn S, anh Thái Bá G, anh Phạm Đình H và anh Bùi Văn T1 yêu cầu bị can Trương Minh N phải bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt và để nghị xử lý các bị can theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 316/CT-VKS-P2 ngày 30/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo:

- Trương Minh N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

- Trần Tuấn A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng với nội dung bản cáo trang của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã quy kết, các bị cáo đề nghị cho được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, những người làm chứng cùng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Trương Minh N và Trần Tuấn A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trương Minh N từ 14 đến 15 năm tù;

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Tuấn Anh từ 08 đến 09 năm tù;

- Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại theo quy định của pháp luật.

- Vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trương Minh N trình bày bản bào chữa cho rằng nguyên nhân ban đầu do bị cáo chữa bệnh sau giới thiệu cho bệnh nhân khác; bị cáo thành khẩn khai nhận tội; chưa khắc phục hậu quả do hoàn cảnh kinh tế khó khăn; bị cáo ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; Bố là bộ đội nghỉ chế độ, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Luật sư đề nghị áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Tuấn A trình bày bản bào chữa cho rằng bị cáo chỉ thực hiện theo sự chỉ đạo của bị cáo N, bị cáo chỉ làm thuê, được trả công, không được hứa hẹn cho tiền, không được bàn bạc, chỉ làm theo yêu cầu của N; bị cáo là sinh viên, gia đình nghèo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo đang lệ thuộc vào N; việc in hóa đơn là sau khi N đã nhận tiền của anh T; khoản tiền 50.000.000 đồng N nhận không có Tuấn A, lúc N nhận 90.000.000 đồng Tuấn A vẫn tin tưởng N làm được việc; không có Tuấn A tham gia thì N vẫn lừa được anh T. Luật sư đề nghị tách rút hành vi giúp sức mờ nhạt trong việc N nhận 290.000.000 đồng của anh T; việc Tuấn A nhận 65.000.000 đồng của anh T bị truy tố là đúng người, đúng tội; sau khi nhận thức ra đã đến Cơ quan công an đầu thú, nhắn gia đình khắc phục hậu quả; bị cáo là sinh viên, phạm tội lần đầu, chưa tiền án, tiền sự; ông bà nội tham gia cách mạng, bố được tặng nhiều bằng khen, mẹ bệnh hiểm nghèo, bố bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm b, i, r, s, x khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 54;

khon 2 Điều 174 BLHS, xử phạt bị cáo Trần Tuấn A 02 năm tù.

Trong phần tranh tụng tại phiên tòa Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Luật sư bào chữa cho các bị cáo, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án giữ nguyên quan điểm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho các bị cáo, các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trương Minh N, Trần Tuấn A tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, những người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ, các bản kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Do cần tiền ăn tiêu và trả nợ nên khoảng năm 2012, Trương Minh N có ý định bán thận của mình cho những người cần ghép thận để lấy tiền. Qua tìm hiểu quy trình tại Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec, N đã chuyển sang làm môi giới cho người hiến thận và người được ghép thận để hưởng lợi; kết nối với những người có nhu cầu ghép thận qua mạng Internet. N thuê Trần Tuấn A, Lê Nam Th và Phạm Văn H2 làm công việc đưa người đi khám, xét nghiệm tại Bệnh viện đa khoa quốc tế VinMec Times City, chi nhánh công ty cổ phần bệnh viện đa khoa quốc tế VinMec ở số 458 Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Sau khi tìm được người có nhu cầu cần mua ghép thận, N nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến tháng 06/2018, bằng hình thức nhận lời tìm được người hiến gan, thận và lo thủ tục ghép gan, thận tại Bệnh viện đa khoa quốc tế VinMec Times City, chi nhánh công ty cổ phần bệnh viện đa khoa quốc tế VinMec cho những người có nhu cầu ghép gan, thận. Với thủ đoạn trên Trương Minh N đã chiếm đoạt của anh Dương Văn T 290.000.000 đồng; anh Thái Bá G số tiền 150.000.000 đồng; ông Phạm Đình H số tiền 150.000.000 đồng và ông Bùi Văn T1 số tiền 150.000.000 đồng, tổng số tiền N chiếm đoạt là 740.000.000 đồng. Cùng với các thủ đoạn trên Trần Tuấn A đã bàn bạc với Trương Minh N và giúp sức cho Trương Minh N chiếm đoạt của anh Dương Văn T số tiền 290.000.000 đồng và trực tiếp chiếm đoạt của anh Dương Văn T số tiền 60.000.000 đồng. Hành vi phạm tội của Trương Minh N, Trần Tuấn A đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hành vi chiếm đoạt tổng số tiền 740.000.000 đồng của bị cáo Trương Minh N thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên” và hành vi chiếm đoạt tổng số tiền 350.000.000 đồng của bị cáo Trần Tuấn A thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”. Chính vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Trương Minh N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Trần Tuấn A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng các quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu riêng về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, hoang mang lo lắng bất bình trong nhân dân. Hơn nữa hành vi phạm tội của các bị cáo đối với các bị hại là những người đang mắc trọng bệnh, các bị cáo gian dối trong việc khám chữa bệnh có thể dẫn đến nhiều hậu quả khôn lường cho người bị hại. Do vậy đối với các bị cáo cần phải có một mức hình phạt thật nghiêm khắc, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với các bị cáo cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này nói chung.

[4] Đánh giá vai trò của từng bị cáo trong vụ án này thì thấy bị cáo Trương Minh N là người giữ vai trò chính, bị cáo khởi xướng ra việc phạm tội, lôi kéo bị cáo Trần Tuấn A giúp sức chiếm đoạt 290.000.000 đồng của bị hại Dương Văn T, ngoài ra bị cáo còn chiếm đoạt số tiền 450.000.000 đồng của nhiều người bị hại khác, hiện chưa khắc phục hậu quả nên bị cáo phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo Trần Tuấn A mới thỏa đáng. Bị cáo Trần Tuấn A giúp sức tích cực cho bị cáo Trương Minh N chiếm đoạt 290.000.000 đồng của bị hại Dương Văn T, ngoài ra bị cáo còn trực tiếp chiếm đoạt 60.000.000 đồng của bị hại Dương Văn T nên bị cáo cũng phải chịu một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo:

- Tăng nặng: Bị cáo Trương Minh N, Trần Tuấn A phạm tội từ 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội các bị cáo tự giác đến Cơ quan điều tra đầu thú; nhân thân các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; gia đình bị cáo Trần Tuấn A đã tích cực bồi thường 60.000.000 đồng trả anh Dương Văn T do bị cáo chiếm đoạt được; ông bà nội bị cáo Trần Tuấn A được tặng thưởng Huy chương, bố bị cáo được nhiều giấy khen, mẹ ốm yếu, hoàn cảnh gia đình khó khăn là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Hành vi phạm tội của bị cáo Trương Minh N đã chiếm đoạt 290.000.000 đồng của anh Dương Văn T; anh Thái Bá G 150.000.000 đồng; ông Phạm Đình H 150.000.000 đồng và ông Bùi Văn T1 150.000.000 đồng đến nay chưa khắc phục nên bị cáo phải bồi thường toàn bộ trả cho những người bị hại.

- Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Tuấn A đã trực tiếp chiếm đoạt tiền và gây thiệt hại cho anh Dương Văn T 60.000.000 đồng đã bồi thường trả, đến nay anh T không có yêu cầu gì nên tòa không xem xét.

[7] về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động mặt sau màu xám có chữ Iphone, mặt trước màu đen, đã qua sử dụng, số imei 354387065835111, không kiểm tra tình trạng hoạt động; 01 màn hình máy tính màu đen, có chân đế, mặt ngoài có chữ Sam Sung, mặt sau có chữ “S22D300HY”, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động; 01 cây máy tính màu đen, mặt ngoài ổ đĩa có chữ “SAM SUNG”, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động; 01 máy in, màu đen, mặt ngoài có chữ “Canon” và chữ “G1000”, có dán tem có số serial: KKTB09031, có dây nguồn màu đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động và 01 máy in, màu trắng, mặt ngoài có chữ “hp” và chữ “hp Laserjet 1200 series”, có dán tem có số “CNCJS 28965” thu giữ của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là tang vật của vụ án, các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 máy hình chữ nhật, màu đen, đã qua sử dụng, KT (40x30x22)cm, một mặt có công tắc màu đỏ, tay cầm màu trắng, kéo mở khay màu đen, không kiểm tra tình trạng hoạt động. 02 tấm kính trong hình vuông, KT (15x15)cm bị vỡ góc. 04 tấm nệm hình chữ nhật, bằng nhựa, màu xanh, KT (9x1)cm, 01 hộp bằng kim loại, mặt ngoài có chữ “LANCER”, màu đỏ, KT (10x6,5)cm, bên trong có tấm lót đệm màu mực đỏ; 01 mặt dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “CÔNG AN XÃ BÌNH BỘ  CÔNG AN H.PHÚ NINH T. PHÚ THỌ” và hình huy hiệu Công an nhân dân, kích thước đường kính khoảng 03cm; 01 mặt dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “CÔNG AN XÃ GIA THỦY  CÔNG AN H.NHO QUAN T. NINH BÌNH” và hình huy hiệu Công an nhân dân, kích thước đường kính khoảng 03cm; 02 dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “ U.B.N.D XÃ BÌNH BỘ H.PHÙ NINH T. PHÚ THỌ” và hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kích thước đường kính khoảng 3,5 cm; 01 dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “ U.B.N.D XÃ GIA THỦY H.NHO QUAN T. NINH BÌNH” và hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kích thước đường kính khoảng 3,5 cm; 01 dấu bằng nhựa, màu cam, in chữ “NGUYỄN QUỐC TUẤN” kích thước khoảng (4,5x0,5)cm; 01 mặt dấu bằng nhựa, màu cam, in chữ “TRƯƠNG TIẾN DŨNG” kích thước khoảng (4,5x1)cm và 01 mặt dấu bằng nhựa, màu cam, in chữ “ĐINH TRUNG PHỤNG” kích thước khoảng (4,5x1)cm không có giá trị sử dụng nên tiêu hủy.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Minh N, Trần Tuấn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Minh N 13 (Mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 06/8/2018.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Tuấn A 09 (Chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 06/8/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, buộc bị cáo Trương Minh N phải bồi thường trả cho:

- Anh Dương Văn T số tiền 290.000.000 đồng (Hai trăm chín mươi triệu đồng);

- Anh Thái Bá G số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng);

- Ông Phạm Đình H số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng);

- Ông Bùi Văn T1 số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động mặt sau màu xám có chữ Iphone, mặt trước màu đen, đã qua sử dụng, số imei 354387065835111, không kiểm tra tình trạng hoạt động; 01 màn hình máy tính màu đen, có chân đế, mặt ngoài có chữ Sam Sung, mặt sau có chữ “S22D300HY”, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động; 01 cây máy tính màu đen, mặt ngoài ổ đĩa có chữ “SAM SUNG”, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động; 01 máy in, màu đen, mặt ngoài có chữ “Canon” và chữ “G1000”, có dán tem có số serial: KKTB09031, có dây nguồn màu đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động và 01 máy in, màu trắng, mặt ngoài có chữ “hp” và chữ “hp Laserjet 1200 series”, có dán tem có số “CNCJS 28965”.

- Tiêu hủy 01 máy hình chữ nhật, màu đen, đã qua sử dụng, KT (40x30x22)cm, một mặt có công tắc màu đỏ, tay cầm màu trắng, kéo mở khay màu đen, không kiểm tra tình trạng hoạt động. 02 tấm kính trong hình vuông, KT (15x15)cm bị vỡ góc. 04 tấm nệm hình chữ nhật, bằng nhựa, màu xanh, KT (9x1)cm, 01 hộp bằng kim loại, mặt ngoài có chữ “LANCER”, màu đỏ, KT (10x6,5)cm, bên trong có tấm lót đệm màu mực đỏ; 01 mặt dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “CÔNG AN XÃ BÌNH BỘ  CÔNG AN H.PHÚ NINH T. PHÚ THỌ” và hình huy hiệu Công an nhân dân, kích thước đường kính khoảng 03cm; 01 mặt dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “CÔNG AN XÃ GIA THỦY  CÔNG AN H.NHO QUAN T. NINH BÌNH” và hình huy hiệu Công an nhân dân, kích thước đường kính khoảng 03cm; 02 dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “ U.B.N.D XÃ BÌNH BỘ H.PHÙ NINH T. PHÚ THỌ” và hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kích thước đường kính khoảng 3,5 cm; 01 dấu bằng nhựa, hình tròn, màu cam, in chữ “ U.B.N.D XÃ GIA THỦY H.NHO QUAN T. NINH BÌNH” và hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kích thước đường kính khoảng 3,5 cm; 01 dấu bằng nhựa, màu cam, in chữ “NGUYỄN QUỐC TUẤN” kích thước khoảng (4,5x0,5)cm; 01 mặt dấu bằng nhựa, màu cam, in chữ “TRƯƠNG TIẾN DŨNG” kích thước khoảng (4,5x1)cm và 01 mặt dấu bằng nhựa, màu cam, in chữ “ĐINH TRUNG PHỤNG” kích thước khoảng (4,5x1)cm.

(Tang vật hiện lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/11/2019 giữa Công an thành phố Hà Nội với Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội).

4. Về án phí:

- Bị cáo Trương Minh N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 33.600.000 đồng án phí dân sự.

- Bị cáo Trần Tuấn A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

636
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về