Bản án 33/2020/HS-ST ngày 11/06/2020 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 11/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 11 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 39/2020/TLST- HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn T; sinh năm 1965; tại Hưng Yên; Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Phạm Thị Đ, cả hai đều đã chết; vợ: Ngô Thị Th; bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 13 giờ ngày 15/01/2020, Công an huện Lâm Hà bắt quả tang Phạm Văn T có hành vi tàng trữ pháo nổ dưới cầu thang nhà ở thuộc tổ dân phố Đ, thị trấn N, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng. Qua kiểm tra phát hiện 06 hộp lập phương, mỗi hộp nên ngoài có ghi chữ nước ngoài có số 36 bên trong có chứa 216 viên hình trụ tròn; 01 hộp lập phương bên ngoài ghi chữ nước ngoài ghi số 49 bên trong có chứa 49 viên hình trụ tròn, 04 bịch nilon bên trong chứ 396 viên nhựa hình cầu nhiều màu xanh, đỏ, vàng có ngòi.

Quá trình điều tra T khai nhận: Đầu tháng 12 năm 2019 T đặt mua số pháo nổ trên từ kênh Youtube trên mạng xã hội với tổng số tiền 5.000.000đồng, T đặt mua với phương thức dùng số điện thoại sim rác (không nhớ số) và địa chỉ nhà để đặt mua, T mua với mục đích để tết nguyên đán 2020 mang sử dụng. Khoảng 01 tuần sau khi đặt mua thì có một người đàn ông đeo khẩu trang không rõ lai lịch liên lạc với T qua số điện thoại của sim rác trên và giao hàng tại nhà của T. T kiểm tra đủ số lượng như đã đặt nên đưa cho người giao hàng số tiền 5.000.000đồng. Sau đó T đem số pháo trên giấu ở dưới cầu thang phòng khách và vứt sim rác đi, đến ngày 15/01/2020 thì bị Công an bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm: 06 hộp lập phương mỗi hộp bên ngoài có ghi chữ nước ngoài có 36, bên trong có chứa 216 viên hình trụ tròn; 01 hộp lập phương bên ngoài ghi số 49 bên trong có chứa 49 viên hình trụ tròn, 04 bịch nilon bên trong chứa 396 viên nhựa hình cầu nhiều màu xanh, đỏ, vàng có ngòi.

Ngày 27/01/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng có bản kết luận giám định số 228/GĐ-PC09 kết luận số thuốc pháo nổ trên có tổng khối lượng 9,63kg.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 14/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà để xét xử bị can Phạm Văn T về tội: “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, không khiếu nại hay thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội: “Tàng trữ hàng cấm”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Tịch thu tiêu hủy 01 thùng giấy được niêm phong có chữ ký Phạm Ngọc L, Hoàng Văn K, Nguyễn Đức H và đóng dấu của Công an tỉnh Lâm Đồng. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào lúc 13 giờ ngày 15/01/2020, Công an huyện Lâm Hà bắt quả tang Phạm Văn T có hành vi tàng trữ trái phép pháo nổ với khối lượng theo kết luận giám định có khối lượng 8,72kg là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ và 0,91kg là pháo nổ.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu giữ và những tài liệu chứng cứ khác được phản ánh trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội: Tàng trữ hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chính sách của Nhà nước về quản lý, sử dụng pháo, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Việc tàng trữ trái phép pháo để sử dụng là hành vi nguy hiểm, có thể gây ra những tác hại nặng nề cho xã hội, để lại không ít đau thương cho nạn nhân và gia đình người sử dụng trái phép pháo, bởi tổn thương do pháo gây ra là rất phức tạp, vừa chấn thương, vừa bỏng nên khi bị thương do pháo thì việc chữa trị, phẫu thuật rất khó khăn. Chính vì vậy, Nhà nước có quy định cụ thể về quản lý, sử dụng pháo. Lẽ ra bị cáo phải ý thức được tác hại của pháo gây ra đối với bản thân và xã hội nhưng ngược lại bị cáo coi thường tính mạng, sức khỏe, không lường trước được hậu quả nặng nề do pháo gây ra. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi bị cáo đã thực hiện.

Xét nhân thân bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự và bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Vì vậy, bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó, cần chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt dưới sự quản lý giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình.

[3] Xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án do Cơ quan điều tra thu giữ bàn giao sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà là: 01 thùng giấy được niêm phong có chữ ký Phạm Ngọc L, Hoàng Văn K, Nguyễn Đức H và dấu tròn màu đỏ có nội dung công an tỉnh Lâm Đồng đựng pháo nhà nước cấm lưu hành tuyên tịch thu tiêu hủy.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (11/6/2020).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng quản lý, giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 thùng giấy được niêm phong có chữ ký Phạm Ngọc L, Hoàng Văn K, Nguyễn Đức H và đóng dấu tròn màu đỏ của Công an tỉnh Lâm Đồng.

(Có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp và quản lý án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (11/6/2020) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 11/06/2020 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về