Bản án 33/2020/HS-ST ngày 09/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 09/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

TRẦN THÀNH T; sinh ngày 24 tháng 8 năm 1978 tại Hải Phòng; nơi đăng ký thường trú: số nhà 44 đường Hồ Hảo H, phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Căn hộ số 3, lầu 14, Khu A1, chung cư Hoàng A- Gia L, số 357 Lê Văn L, phường C, Quận D, Thành Phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Thành T và bà Nguyễn Thị Hoàng H; vợ: Nguyễn Thị H; con: 01 người, sinh năm 2017; tiền án: Ngày 23/11/2009, Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án số 46/2009/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/4/2014 (chưa chấp hành xong trách nhiệm dân sự); tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam: 04/9/2019. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 04/9/2019, TRẦN THÀNH T điều khiển xe gắn máy biển số 59T1-693.00 lưu thông trên đường Trường C, khi chạy đến đoạn trước số nhà 01 Trường C, Phường E, quận F thì bị tổ tuần tra 363 Công an quận Tân Bình nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Do T không xuất trình được giấy tờ tùy thân nên T được tổ công tác đưa về trụ sở Công an Phường 11, quận Tân Bình làm việc. Qua kiểm tra, phát hiện T cất giấu 02 gói nylon chứa bột màu trắng trong túi nhỏ quần jean đang mặc phía trước bên phải (Kết luận giám định số 1720/KLGĐ- H ngày 13/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định là Heroin, có khối lượng 0,1227 gam).

Quá trình điều tra, TRẦN THÀNH T thừa nhận hành vi cất giấu số ma túy trên để sử dụng. Nguồn gốc 02 gói ma túy trên là do T mua của một người bán dạo (không rõ lai lịch) ở phố đi bộ Bùi V, Quận G với giá 160.000 đồng vào chiều ngày 04/9/2019. Kết quả xét nghiệm, T dương tính với chất ma túy.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Lê Thị Hằng, ghi số 1720 (là ma túy còn lại sau giám định).

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 59T1-693.00, do TRẦN THÀNH T đứng tên đăng ký.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 06 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo TRẦN THÀNH T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo thì hành vi cất giấu 0,1227 gam ma túy ở thể rắn, loại Heroin nhằm mục đích để sử dụng của Trần Thành T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích nên lần phạt tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có truyền thống cách mạng, ông nội bị cáo là anh hùng liệt sỹ, nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 02 đến 03 năm tù.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Lê Thị Hằng, ghi số 1720 (là ma túy sau giám định) là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy - Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 59T1-693.00 thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra xác định là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo để chiếu cố giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giúp cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ được Công an quận Tân Bình lập, thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra quyết định tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo TRẦN THÀNH T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng; nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, thì hành vi cất giữ trái phép 0,1227 gam chất ma túy ở thể rắn, loại Heroin nhằm mục đích để sử dụng của bị cáo TRẦN THÀNH T là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý, nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích nên lần phạt tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm cơ sở chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Mặc dù biết tác hại của ma túy, nhưng do muốn thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mình mà bị cáo đã cố ý phạm tội, nên cần xét xử bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có truyền thống cách mạng, có ông nội là anh hùng liệt sỹ. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tính tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Việc đại diện Viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo để đề nghị áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm c khoản 1 Điều 249 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Lê Thị Hằng, ghi số 1720 (là ma túy sau giám định). Xét thấy đây là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 59T1-693.00 thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra xác định là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất trả lại cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo TRẦN THÀNH T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: TRẦN THÀNH T 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2019. [2] Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 59T1- 693.00, số khung: 10EY-461280, số máy: 55P1-461291 (Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình). - Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Lê Thị Hằng, ghi số 1720 (là ma túy sau giám định) (Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình).

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 09/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về