Bản án 33/2020/HNGĐ-ST ngày 07/05/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 33/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại Toà án nhân dân huyện Minh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 91/2019/TLST-HNGĐ ngày 30/12/2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2020/QĐXX-ST ngày 03/3/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đ Th Qu Ng, sinh năm 1997

Trú tại: Thôn B M 2, xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh C K H, sinh năm 1993

Trú tại: Bản H L, xã H S, huyện M H, tỉnh Qu B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 20/12/2019 và bản tự khai ngày 07/02/2020 của nguyên đơn Đ Th Qu Ng trình bày giữa chị và anh C K H đã đăng ký kết hôn năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc và đã sinh được 01 người con. Sau đó hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau gây mất đoàn kết gia đình, hiện nay tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy chị Ng làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Con chung của vợ chồng: Hai vợ chồng có 01 người con chung là cháu C B Tr sinh ngày 27/9/2016 hiện nay cháu Tr đang ở với chị Ng. Sau khi ly hôn nguyện vọng của chị Ng là được nuôi dưỡng cháu Tr và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/1 tháng.

Tài sản chung và khoản vay chung: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã triệu tập anh H nhiều lần nhưng anh H không đến Toà án để giải quyết vụ án. Toà án đã đến tại cơ sở và xác minh thì biết được anh H hiện tại vẫn đang sinh sống và làm việc tại địa phương nơi cư trú, Tòa án đã tiến hành niêm yết các giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, thông báo mở lại phiên tòa nhưng anh H vẫn cố tình không hợp tác với Tòa án để giải quyết vụ án mà cố tình dấu địa chỉ. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Ngày 19/3/2020, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị Ng và anh H. Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh H vẫn vắng mặt nên Toà án đã hoãn phiên toà vì vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh H vẫn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Đ Th Qu Ng và anh C K H đã đăng ký kết hôn năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc nên coi đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nhưng do anh chị thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống mà hai bên không khắc phục được dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, hai vợ chồng sống ly thân với nhau. Xét thấy nguyện vọng của chị Ng xin được ly hôn là chính đáng cần chấp nhận, áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Đ Th Qu Ng được ly hôn với anh C K H.

[2] Về con chung: Xét thấy hiện nay con chung của hai anh chị đang ở với chị Ng và nguyện vọng của chị Ng là muốn được nuôi con. Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình xử giao cho chị Đ Th Qu Ng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu C B Tr sinh ngày 27/9/2016 là hợp lý. Tại phiên tòa chị Ng không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử nhận định để đảm bảo quyền lợi cho con nên xử buộc anh C K H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 500.000 đ (Năm trăm nghìn đồng), cho đến khi cháu C B Tr tròn 18 tuổi.

[3] Tài sản chung và khoản vay chung: Không có nên không xem xét.

[4] Án phí: Chị Đ Th Qu Ng phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Ng đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004260 ngày 30/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa. Chị Ng đã nộp đủ án phí.

Anh C K H phải chịu 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 227 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đ Th Qu Ng được ly hôn với anh C K H.

2. Về con chung: Xử giao chị Đ Th Qu Ng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu C B Tr sinh ngày 27/9/2016 là hợp lý. Xử buộc anh C K H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 500.000 đ (Năm trăm nghìn đồng), cho đến khi cháu C B Tr tròn 18 tuổi.

Việc cấp dưỡng nuôi con được thực hiện kể từ tháng 5/2020. Không ai được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung, khi cần thiết vì quyền lợi của con một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Đ Th Qu Ng phải chịu 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Ng đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004260ngày 30/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa. Chị Ng đã nộp đủ án phí.

Anh C K H phải chịu 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

4. Quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trường hợp bên phải thi hành án do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự mà không có thỏa thuận lãi suất thì thực theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự được xác định mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất quá hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự để trả cho bên được thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (07/5/2020), bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày được niêm yết bản án tại UBND xã nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HNGĐ-ST ngày 07/05/2020 về ly hôn

Số hiệu:33/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về