Bản án 33/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn T, sinh năm 1984 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 14/42, đường Nguyễn Phúc T, phường K L, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; chỗ ở: Ấp Tân Đ, xã Tân H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn B và bà Lê Thị C; vợ: Nguyễn Thị D; con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 05.2.2005, bị Công an phường Kim L, thành phố , tỉnh Thừa Thiên Huế phạt 50.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng.

Ngày 10.5.2005 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng.

Ngày 31.8.2009 bị Công an phường Kim L, thành phố Huế, tỉnh Thừa ThiênHuế xử phạt vi phạm hành chính số tiền 350.000 đồng về hành vi đánh nhau.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/02/2019, chuyển tạm giam ngày 28/02/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp Tân X, xã Tân P, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn T là công nhân công trình xây dựng dự án điện mặt trời tại xã Tân H, huyện Tân Châu. Khoảng 19 giờ, ngày 18/02/2019, T mượn xe mô tô 70H8-7245 của Lê Đức T, là người làm C để đi sửa điện thoại di động. Nguyễn T đến tiệm điện thoại di động “Phương Uyên” gặp Nguyễn Văn C, sinh năm 1993, ngụ: ấp Tân X, xã Tân P, huyện Tân Châu là chủ tiệm để sửa điện thoại. Lúc này, T phát hiện trên mặt tủ kính trưng bày điện thoại có để 01 điện thoại Iphone 7 plus, nên T đã lén lút trộm cắp bỏ vào túi quần rồi đem về chổ ở cất giấu. Khoảng 30 phút sau, phát hiện mất điện thoại, anh C kiểm tra camera giám sát và xác định T là người đã trộm cắp. Sáng ngày 19/02/2019, anh C trình báo sự việc đến Công an xã Tân Phú, đồng thời điện thoại cho T đến tiệm lấy điện thoại đã sửa xong, T biết hành vi trộm cắp tài sản của mình bị phát hiện nên đến Công an xã Tân P, huyện Tân Châu đầu thú, khai báo hành vi phạm tội.

Kết quả định giá tài sản: Tại bản kết luận định giá số: 15/KL-HĐĐG ngày 25/02/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus 32 G trị giá 8.300.000 đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu trắng bạc, loại 32 GB, số IMEI: 355834089445293 đã trả lại cho bị hại Nguyễn Văn C.

Tạm giữ: 01 điện thoại di động hiệu Samsung 7560, màu đen, số IMEI : 033805/7 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo, không rõ số IMEL, bị vỡ màn hình của bị can Nguyễn T.

- 01 đĩa CD-R hiệu Mingsheng do Nguyễn Văn C giao nộp.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Nguyễn Văn C đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa, bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 36/QĐ-KSĐT, ngày 03 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điêu 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng đã thu giữ trong vụ án theo quy định của pháp luật .

- Bị cáo Nguyễn T không tranh luận.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày18/02/2019, tại tiệm điện thoại di động “Phương Uyên” của anh Nguyễn Văn C thuộc ấp Tân X, xã Tân P, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, trong lúc đến sửa điện thoại, bị cáo phát hiện trên mặt tủ kính trưng bày điện thoại, có để 01 điện thoại di động Iphone 7plus 32G trị giá 8.300.000 đồng của Nguyễn Văn C (chủ tiệm), lợi dụng lúc anh C không để ý nên T đã lén lút lấy trộm đem về chỗ ở cất giấu. Sau đó bị phát hiện, T đến Công an xã Tân P, huyện Tân Châu đầu thú.

Do đó, đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo biết rõ việc lấy trộm tài sản của người khác là phạm tội, nhưng vẫn cố tình thực hiện, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của bị cáo gây ra.

[4] Khi quyết định hình phạt cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4.1]Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4.2] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo T cần phải xử mức án tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa C.

[6] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

[6.1] Anh Nguyễn Văn C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6.2] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung 7560, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Oppo, không rõ số IMEL, của Nguyễn T không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo T nên trả lại cho bị cáo T là phù hợp.

[6.3] Đối với 01 đĩa CD-R hiệu Mingsheng của anh Nguyễn Văn C giao nộp cho cơ quan điều tra, trong đĩa có ghi hình bị cáo T chiếm đoạt điện thoại di động Iphone 7plus 32G của anh C, đây là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo T, hiện vật chứng này đã được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh nên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu có trách nhiệm giao lại cho Tòa án nhân dân huyện Tân Châu lưu giữ trong hồ sơ vụ án này.

[7] Bị cáo Nguyễn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm i,s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn T 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/02/2019.

2. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Ghi nhận anh Nguyễn Văn C đã nhận lại tài sản là 01 điện thoại di động Iphone 7plus 32G màu trắng và không yêu cầu bị cáo bồi thường.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn T 01 điện thoại di động hiệu Samsung 7560, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Oppo.

- Lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa CD-R hiệu Mingsheng.

Vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17.5.2019.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án hình sự sơ thẩm xử công khai báo cho bị cáo Nguyễn T biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Nguyễn Văn C được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:33/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về