Bản án 33/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Pùa Thị L; tên gọi khác: Không, sinh năm 1979 tại huyện V, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản Kh, xã Ch, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Pùa Láo S (đã chết) và bà Giàng Thị M, sinh năm 1957; bị cáo có chồng là Phàng A Gi, sinh năm 1965 và 05 con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị bắt giam giữ ngày 03/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Đặng Hùng T, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Tiểu khu 56, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

Người phiên dịch: Anh Sồng A P, sinh năm 1985, nơi cư trú: Tiểu khu 10, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt

Người chứng kiến:

- Anh Trần Quang Tr, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Tiểu khu S, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

- Chị Hà Thị D, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Bản Th, xã T, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 03/01/2019, tổ công tác công an huyện V phối hợp với đồn biên phòng T, làm nhiệm vụ tại bản Kh, xã Ch, huyện V, tỉnh Sơn La, tiến hành kiểm tra phát hiện tại nhà ở của Pùa Thị L có Đằng Hùng T và Trần Quang Tr đang ngồi ở bàn uống nước trong phòng khách. Qua kiểm tra thu giữ của T 01 gói nilon màu hồng đựng mảnh dạng nén màu hồng, 01 chiếc bật lửa ga màu xanh và 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy. L và T khai nhận T vừa mua được 02 viên hồng phiến của L với giá 100.000 đồng sau đó T tự lên phòng khách của gia đình L sử dụng hết hơn một viên. Tr không tham gia việc mua bán sử dụng ma túy. Căn cứ hành vi vi phạm của L và T, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng, tạm giữ của L 01 chiếc túi vải có hình hoa văn. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Pùa Thị L. Quá trình khám xét phát hiện thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng 02 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY và số tiền 100.000 đồng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng viên nén màu hồng thu giữ của Đằng Hùng T được 0,06 gam lấy toàn bộ làm mẫu ký hiệu LT; khối lượng 02 viên nén màu hồng thu giữ của Pùa Thị L được 0,18 gam, lấy 0,09 gam làm mẫu ký hiệu L. Mẫu giám định LT và L được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy, khối lượng ma túy.

Tại kết luận giám định số: 187 ngày 08/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu LT, L là ma túy; loại Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,15 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,24 gam, loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 28/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Pùa Thị L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Pùa Thị L từ 02 (hai) năm tù đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Pùa Thị L.

Về vật chứng vụ án đề nghị áp dụng các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,09 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Pùa Thị L, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Đằng Hùng T, 01 túi thổ cẩm màu đen có hoa văn đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy và 01 chiếc bật lử ga đã qua sử dụng. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 100.000 đồng thu giữ của bị cáo là số tiền do phạm tội mà có.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Pùa Thị L về tội mua bán trái phép chất ma túy đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Pùa Thị L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 187 ngày 08/1/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Lời khai của người làm chứng anh Đằng Hùng T, lời khai của người chứng kiến anh Trần Quang Tr và chị Hà Thị D, Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can thể hiện: Ngày 03/01/2019, bị cáo Pùa Thị L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,18 gam Methamphetamine mục đích để bán kiếm lời, L đã bán trái phép cho Đằng Hùng T 0,06 gam Methamphetamine thu lợi số tiền 100.000 đồng. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Pùa Thị L phạm tội: Tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định.

[3] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn tàng trữ ma túy để bán kiếm lời. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Bị cáo Pùa Thị L đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Pùa Thị L còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Pùa Thị L xin được của một người đàn ông dân tộc mông, không quen biết tại biên giới Việt Nam-Lào. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh điều tra, buộc Pùa Thị L phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về số ma túy thu giữ.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Đằng Hùng T, qua điều tra xác minh T chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma túy tàng trữ chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó, ngày 03/01/2018 cơ quan Chảnh sát điều tra Công an huyện V đã ra quyết định trả tự do và quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đề nghị Chủ tịch UBND xã Vân Hồ, huyện V áp dụng biện pháp giáo dục biện pháp giáo dục tại xã đối với Đằng Hùng T là có căn cứ, đúng pháp luật Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với Trần Quang Tr đi cùng T đến nhà L nhưng không tham gia việc mua ma túy, không sử dụng ma túy với T, do đó không đề cập đến biện pháp xử lý.

Đối với việc Đằng Hùng T tự ý sử dụng ma túy tại nhà Pùa Thị L, L không biết và không đồng ý cho T sử dụng ma túy tại nhà riêng nên không xử lý về hành vi Chứa chấp việc sử dựng trái phép chất ma túy.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,09 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Pùa Thị L, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Đằng Hùng T, 01 túi thổ cẩm màu đen có hoa văn đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy và 01 chiếc bật lử ga đã qua sử dụng là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 100.000 đồng thu giữ của Pùa Thị L là số tiền do bán ma túy mà có tuyên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1.Tuyên bố bị cáo Pùa Thị L phạm tội: Tội mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Pùa Thị L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,09 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Pùa Thị L, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Đằng Hùng T, 01 túi thổ cẩm màu đen có hoa văn đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy và 01 chiếc bật lử ga.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 100.000 đồng của bị cáo Pùa Thị L.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về