Bản án 33/2019/HS-ST ngày 17/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂKLĂK

BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 17/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17/6/2019 tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh ĐăkLăk, xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 28/2019/HSST ngày 22 tháng 5 năm 2019. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Văn Thế H; Tên gọi khác: không; Sinh năm 1999, tại tỉnh Đăk Lăk; Hộ khẩu thường trú và nơi ở trước khi phạm tội: Thôn TP, xã QT, huyện CM, tỉnh ĐắkLắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;Trình độ học vấn: 03/12; Nghề nghiệp: làm nông; Tiền án: không; tiền sự: không; Con ông: Văn Thế Lành (đã chết), và con bà Trịnh Thị Mai, sinh năm 1959, hiện bà Mai đang sinh sống tại Tiến Phú, xã Quảng Tiến, huyện Cư Mgar, tỉnh ĐắkLắk; Bị cáo chưa có vợ, con. Nhân thân: Ngày 01/3/2019 có hành vi trộm cắp tài sản, ngày 8/4/2019 bị cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Cư Mgar khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Anh Phan Xuân T; sinh năm: 2001

Trú tại: Thôn A, xã EK, huyện CK, tỉnh Đăk Lăk (vắng mặt)

- Đại diện cho người bị hại: Ông Phan Xuân Hà, sinh năm 1976 – Bố của bị hại

Trú tại: Thôn A, xã EK, huyện Ck, tỉnh Đăk Lăk (vắng mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn H

Trú tại: Thôn TP, xã QT, huyện CM, tỉnh ĐắkLắk (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và các diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 28/2/2019, Văn Thế H đến quán cà phê Bảo Bảo tại Tổ dân phố 3, Thị trấn Quảng Phú, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk uống cà phê và chơi với bạn là Nguyễn Quốc P. Do P coi quán một mình nên có rủ H ở lại chơi nên H đồng ý, trong lúc ở quán cà phê thì P có cho H mượn điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu xám trắng của Phan Xuân T để sử dụng. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày cháu Phan Xuân T đi chơi về, T thấy H đang sử dụng điện thoại mà trước đó T cho P mượn, thì cháu T nói với H “khi nào chơi xong nhớ cắm xạc pin trả lại cho T”, rồi T vào phòng ngủ trước. Một lúc sau H cắm xạc điện thoại cho cháu T rồi đi ngủ.

Khoảng 4 giờ ngày 01/3/2019, H thức dậy để đi về nhà, H nhìn thấy điện thoại của cháu T vẫn đang cắm xạc pin và mọi người trong phòng đều đang ngủ. Lúc này Hà nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại Iphone 6 plus của cháu T. H dùng tay rút dây xạc pin ra khỏi điện thoại và lấy điện thoại cho vào túi quần của mình rồi đi về. Sau đó H đem chiếc điện thoại trên bán lại cho anh Nguyễn Văn H là chủ tiệm cầm đồ số tiền 1.500.000đ rồi lấy tiền này tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 17/KL-HDDGTS, ngày 07/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Cư Mgar đã kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus, màu xám – trắng, số Imei: 354392060020065, giá trị còn lại là 4.000.000đ.

Về xử lý vật chứng: Ngày 02/5/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Mgar đã trả 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu xám trắng, viền màn hình màu đen, số Imei: 354392060020065 cho cháu Phan Xuân T là chủ sở hữu hợp pháp, vì việc trả lại tài sản không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án.

Về trách nhiệm dân sự:

Văn Thế Hà đã tự nguyện bồi thường số tiền 1.500.000đ cho anh Nguyễn Văn H và anh H có đơn không yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Bị Hại cháu Phan Xuân Thành và gia đình không yêu cầu gì về phần dân sự đối với bị cáo Văn Thế H.

Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 20/5/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar đã truy tố bị cáo Văn Thế Hà về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Văn Thế H như nội dung cáo trạng và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Văn Thế H phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Văn Thế H từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Về vật chứng của vụ án: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Mgar đã trả 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu xám trắng, viền màn hình màu đen, số Imei: 354392060020065 cho cháu Phan Xuân T là chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường thiệt hại về mặt dân sự.

Bị cáo không có ý kiến đối đáp, tranh luận gì.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu đối đáp gì Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không nói gì

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an Huyện Cư Mgar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Mgar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm và hành vi phạm tội thể hiện: Do ý thức coi thường pháp luật và với mục đích tư lợi nên vào khoảng 4 giờ ngày 01/3/2019 tại Tổ dân phố 3, Thị trấn Quảng Phú, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk, Văn Thế H lợi dụng lúc cháu Phan Xuân T đang ngủ đã lén lút lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus có giá trị 4.000.000đ của T đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì bị phát hiện và xử lý.

Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 5.000.0000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Văn Thế H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 như kết luận của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của người bị hại, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi và nhận thức, bị cáo phải biết được rằng tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật quan tâm và bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt trái pháp luật đến tài sản của người khác đều bị trừng trị nghiêm khắc.

Xét về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tài sản bị trộm cắp đã thu hồi lại được và trả cho người bị hại; bị cáo được người bị hại làm đơn bãi nại được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

Với tính chất mức độ hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo mình thành công dân sống tôn trọng pháp luật, ngoài ra còn mục đích răn đe phòng ngừa chung về tội phạm.

[4] Trong vụ án này anh Nguyễn Văn H có mua lại chiếc điện thoại của Văn Thế H với số tiền 1.500.000đ. Tuy nhiên, khi mua anh Hậu không biết chiếc điện thoại này do Văn Thế H trộm cắp mà có. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Mgar không đề cập xử lý đối với anh Nguyễn Văn H là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại, đại diện cho người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường thiệt hại về mặt dân sự nên không đặt ra để giải quyết.

[6] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 46 Bộ Luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Mgar đã trả 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu xám trắng, viền màn hình màu đen, số Imei: 354392060020065 cho cháu Phan Xuân T là chủ sở hữu hợp pháp.

[7] Về án phí lệ phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Văn Thế H phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: bị cáo Văn Thế H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Văn Thế H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị bắt để thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 46 Bộ Luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Mgar đã trả 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu xám trắng, viền màn hình màu đen, số Imei: 354392060020065 cho cháu Phan Xuân T là chủ sở hữu hợp pháp.

Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Văn Thế H phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người đại diện cho bị hại, người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HS-ST ngày 17/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:33/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về