Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về không công nhận là vợ chồng giữa chị H với anh B  

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG GIỮA CHỊ H VỚI ANH B

Ngày 27-6-2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2019 về việc “Không công nhận là vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-DS ngày 30-5-2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1974, (có mặt)

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Địa chỉ nơi ở: Thôn K, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Bị đơn: Anh Phạm Văn B, sinh năm 1974, (vắng mặt)

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Địa chỉ nơi ở: Thôn V, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày: Chị và anh Phạm Văn B không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nhưng được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán ở địa phương và chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 12/1991. Sau khi tổ chức cưới vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh B có quan hệ nam nữ bất chính với người phụ nữ khác, chị có khuyên bảo anh B nhiều lần nhưng anh B không nghe còn đánh đập chị. Đến đầu năm 2015 anh B đã bỏ nhà đi theo người phụ nữ khác, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị với anh B không còn, chị yêu cầu Toà án nhân dân (TAND) huyện Hưng Hà giải quyết cho chị được ly hôn anh B. Chị và anh B có 02 con chung là Phạm Thị Thu, sinh ngày 08-03-1993 (đã chết năm 2018) và Phạm Thị H, sinh ngày 18-6-2001, đến nay cháu Hoài đã trưởng thành nên không phải nuôi dưỡng. Về tài sản chung, chị và anh B tự phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng và của người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Nguyên đơn là chị H đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị đơn là anh B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh B không đến Tòa án để trình bày ý kiến của anh về việc giải quyết vụ án, tại phiên tòa anh B vẫn vắng mặt, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh B.

- Về giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 14 và Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đìnhNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Tuyên bố không công nhận chị Trần Thị H và anh Phạm Văn B là vợ chồng. Chị H và anh B có 01 con chung là Phạm Thị H, sinh ngày 18-6- 2001, đến nay cháu Hoài đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết trách nhiệm nuôi dưỡng. Về tài sản chung không xem xét giải quyết. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà nhận định:

[2] Chị Trần Thị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Phạm Văn B. Anh B cư trú tại: Thôn V, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh B, đồng thời triệu tập hợp lệ đối với anh B đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ án nhưng anh B đều vắng mặt không có lý do. Vì lý do trên Tòa án không lấy được lời khai của anh B về vụ án, Tòa án mở phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn là anh B theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Theo xác minh tại UBND xã Tây Đô thì chị Trần Thị H và anh Phạm Văn B chung sống với nhau không đăng ký kết hôn (phù hợp với lời trình bày của chị H). Như vậy chị Trần Thị H và anh Phạm Văn B không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1991 đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân nhau đến nay. Nay chị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh B, xét thấy cần xử tuyên bố không công nhận chị Trần Thị H và anh Phạm Văn B là vợ chồng là phù hợp với quy định tại Điều 14 và Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về nuôi con chung: Chị H và anh B có 02 con chung là Phạm Thị Thu, sinh ngày 08-03-1993 và Phạm Thị H, sinh ngày 18-6-2001, tuy nhiên cháu Thu đã chết vào năm 2018, cháu Hoài đến nay đã trưởng thành nên không phải giải quyết trách nhiệm nuôi dưỡng.

[6] Về chia tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh B không trình bày ý kiến của anh với Tòa án nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 14, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố không công nhận chị Trần Thị H và anh Phạm Văn B là vợ chồng.

2. Về nuôi con chung: Chị H và anh B có 01 con chung là Phạm Thị H, sinh ngày 18-6-2001, đến nay cháu Hoài đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết trách nhiệm nuôi dưỡng.

3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005354 ngày 22-01-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Chị Trần Thị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Văn B có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về không công nhận là vợ chồng giữa chị H với anh B  

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về