Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 191/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2019, về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2019/QĐXX-ST ngày 19 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1993; Địa chỉ nơi cư trú: ấp PL B, xã PT B, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp. (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Bùi Thanh V, sinh năm 1990; Địa chỉ nơi cư trú: ấp PL A, xã PT B, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện đề ngày 20/5/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc C trình bày: Vào ngày 18/10/2016 (âm lịch), chị và anh Bùi Thanh V cưới nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PT B, huyện HN, hôn nhân do cả hai tự tìm hiểu từ năm 2009 rồi mới tiến tời hôn nhân. Sau khi cưới vợ chồng anh chị sống với gia đình của anh V. Ngay thời gian đầu, cuộc sống vợ chồng đã không hạnh phúc, nguyên do anh V và gia đình anh V không thông cảm với công việc của chị, vì buổi sáng chị phải đến hiệu thuốc tây buôn bán đến tối mới về từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm, mâu thuẫn chuyện tình cảm, dẫn đến cải vả với nhau thường xuyên. Chị và anh V đã không còn chung sống từ cuối năm 2017 đến nay. Từ khi không còn sống chung, tuy chị và anh V có gặp nhau nhưng không có bàn bạc, hàn gắn tình cảm. Nay chị nhận thấy tình cảm giữa hai vợ chồng không còn, không thể hàn gắn lại được, nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Bùi Thanh V.

Về việc nuôi con: Trong thời gian chung sống, chị và anh Bùi Thanh V có 01 con chung tên Bùi B, sinh ngày 07/10/2017, hiện nay cháu đang sống với chị. Nay ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh Bùi Thanh V tự thỏa thuận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị và anh Bùi Thanh V chung sống không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với anh Bùi Thanh V, Toà án đã triệu tập để hòa giải và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự nhưng anh từ chối không đến Tòa án tham gia phiên hòa giải và xét xử.

Ti phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc C được ly hôn với anh Bùi Thanh V; về con chung: giao cháu Bùi B, sinh ngày 07/10/2017 cho chị Nguyễn Thị Ngọc C được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Bùi Thanh V không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết; về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đây là vụ kiện tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

[2l Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Bùi Thanh V đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Ngọc C và anh Bùi Thanh V là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn và hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Xét yêu cầu ly hôn của chị Ngọc C đối với anh Thanh V, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời trình bày của chị Ngọc C tại phiên tòa hôm nay thì cuộc sống của chị và anh Thanh V không hạnh phúc, nguyên do anh V và gia đình anh V không thông cảm với công việc của chị, vì buổi sáng chị phải đến hiệu thuốc tây buôn bán đến tối mới về từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm, mâu thuẫn chuyện tình cảm, dẫn đến cải vả với nhau thường xuyên. Chị và anh V đã không còn chung sống từ cuối năm 2017 đến nay. Từ khi không còn sống chung, tuy chị và anh V có gặp nhau nhưng không có bàn bạc, hàn gắn tình cảm. Đối với anh Thanh V thì Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến Tòa án để hòa giải, động viên cho vợ chồng đoàn tụ, nhưng anh vẫn không đến và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét. Từ đó, có thể nhận thấy rằng mối quan hệ vợ chồng của chị Ngọc C và anh Thanh V hoàn toàn không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Như vậy, xét thấy yêu cầu ly hôn của chị Ngọc C là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: “Khi vợ hoặc chồng yêu cẩu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” và cũng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, nên chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Ngọc C ly hôn với anh Bùi Thanh V.

[4] Về việc nuôi con: Tại phiên tòa hôm nay, chị Ngọc C yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Bùi B, sinh ngày 07/10/2017, Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Bùi B từ khi sinh ra cho đến nay đều do chị Ngọc C chăm sóc, nuôi dưỡng, ngoài ra hiện nay cháu chưa đủ 36 tháng tuổi (hiện nay cháu mới 23 tháng tuổi) và để ổn định việc sinh hoạt của cháu, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của chị Ngọc C, anh Thanh V không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Ngọc C không có yêu cầu.

[5] Về tài sản chung Do chị Ngọc C trình bày tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh Thanh V không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về nợ chung: Do chị Ngọc C trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh Thanh V không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc đương sự phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 53, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc C và anh Bùi Thanh V.

2. Về việc nuôi con:

2.1. Chị Nguyễn Thị Ngọc C được tiếp tục chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con chung tên Bùi B, sinh ngày 07/10/2017.

2.2. Anh Bùi Thanh V không phải cấp dưỡng nuôi con.

2.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc C chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000855 ngày 14/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Ngự.

4. Hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về