Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 161/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXX-ST ngày 19 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Hà Thị Thanh H, sinh năm 1980; thường trú: Số 25A, khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2/ Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng N, sinh năm 1980; thường trú: Số 22/31, khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/02/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Thanh H và anh Nguyễn Trọng N có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 03 năm thì tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện D (nay là phường D, thị xã D), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 218/2004, quyển số 02 ngày 20/9/2004.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại số 22/31, khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị H bị bệnh ung thư tuyến giáp, đến năm 2016 phải nghỉ việc để điều trị bệnh nên mọi chi phí sinh hoạt trong gia đình và nuôi con đều do anh N chịu trách nhiệm dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm sống và không còn yêu thương nhau nữa. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu được ly hôn với anh N.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Hà Gia H, sinh ngày 13/11/2005 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 09/4/2009, hiện đang sống cùng anh N. Sau khi ly hôn, chị H có nguyện vọng được nuôi con, trường hợp anh N yêu cầu nuôi con thì chị đồng ý giao 02 con cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H tự nguyện cấp dưỡng nuôi mỗi con là 2.500.000 đồng/tháng, 02 con là 5.000.000 đồng/tháng đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị H và anh N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 - Tại bản tự khai ngày 28/3/2019, 18/4/2019 bị đơn anh Nguyễn Trọng N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất với phần trình bày của chị Hiền về điều kiện kết hôn, nơi ở của hai vợ chồng sau khi kết hôn.

Về thời gian mâu thuẫn: Anh N xác định vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Nay anh N đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Về con chung: Anh N thống nhất vợ chồng có 02 con chung Nguyễn Hà Gia H, sinh ngày 13/11/2005 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 09/4/2009, hiện đang sống cùng anh N. Sau ly hôn, anh N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung và tự nguyện không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Thanh H và anh Nguyễn Trọng N có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện D (nay là phường D, thị xã D), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 218/2004, quyển số 02 ngày 20/9/2004 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Chị Hà Thị Thanh H và anh Nguyễn Trọng N xác định vợ chồng có khoảng thời gian chung sống với nhau rất hạnh phúc rồi mới phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, đã có thời gian sống ly thân và không còn yêu thương nhau. Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng, tuy nhiên chị H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng còn anh N có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của các đương sự có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Chị H yêu cầu ly hôn, anh N cũng đồng ý nên căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị H.

[2.2] Về con chung: Cháu Nguyễn Hà Gia H, sinh ngày 13/11/2005 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 09/4/2009 hiện đang sống cùng cha. Khi ly hôn, anh Nguyễn Trọng N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, tại bản tự khai ngày 17/4/2019 các cháu đều có nguyện vọng được ở với cha khi cha mẹ ly hôn, đồng thời chị H cũng đồng ý giao các con cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng khi anh N có yêu cầu được nuôi con. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án tiếp tục giao các con chung cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng để bảo đảm sự phát triển bình thường của con.

[2.3] Về cấp dưỡng: Anh Nguyễn Trọng N không yêu cầu chị Hà Thị Thanh H cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên chị H tự nguyện cấp dưỡng nuôi mỗi người con 2.500.000 đồng/tháng. Xét đây là sự tự nguyện của chị H nên Tòa án ghi nhận.

[2.4] Tài sản chung: Đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5] Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hà Thị Thanh H phải chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hà Thị Thanh H về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Nguyễn Trọng N.

1.1 Về hôn nhân: Chị Hà Thị Thanh H được ly hôn với anh Nguyễn Trọng N [Giấy chứng nhận kết hôn số 218/2004, quyển số 02 ngày 20/9/2004 do Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện D (nay là phường D, thị xã D), tỉnh Bình Dương cấp].

1.2 Về con chung: Chị Hà Thị Thanh H có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Hà Gia H, sinh ngày 13/11/2005 và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 09/4/2009 cho anh Nguyễn Trọng N trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Hà Thị Thanh H và anh Nguyễn Trọng N đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Hà Thị Thanh H cấp dưỡng nuôi mỗi người con 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng/tháng. Thời hạn cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

1.4 Tài sản chung: Đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 1.5 Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hà Thị Thanh H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng, được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028156 ngày 11/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương. Chị Hà Thị Thanh H còn phải tiếp tục nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về