Bản án 33/2019/DS-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂNHUYỆN C, TỈNH Đ

BẢN ÁN 33/2019/DS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 305/2018/TLST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2018, về tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2019/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2019/QĐST-DS ngày 24 tháng 6 năm 2019; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lữ Tú Tr, sinh năm 1973;

Địa chỉ: Ấp Hòa A, xã Hòa T, huyện C, tỉnh Đ.

- Bị đơn:

1. Ông Lê Văn M, sinh năm 1972;

2. Bà Nguyễn Thị Ú, sinh năm 1976;

Cùng địa chỉ: Ấp Hòa H, xã Hòa T, huyện C, tỉnh Đ.

Hiện bỏ địa phương, không rõ địa chỉ.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Lữ Tú Tr trình bày.

Ngày 12-7-2016 (AL), bà Tr có cho vợ chồng ông Lê Văn M, bà Nguyễn Thị Ú vay số tiền 50.000.000 đồng. Khi vay, hai bên có lập “Tờ mượn tiền” (do ông M tự viết tay trên giấy tập học sinh), trong đó thỏa thuận sau ba (03) tháng vợ chồng ông M sẽ trả hết một lần tiền vay cho bà Tr, lãi suất hai bên thỏa thuận (bằng lời nói) là 2%/tháng (20.000 đồng/1.000.000đồng/tháng). Tuy nhiên, khi đến hạn thì vợ chồng ông M chỉ trả tiền lãi của một (01) tháng, sau đó không trả vốn và lãi cho bà Tr. Do đó, 27-7-2017, bà Tr yêu cầu vợ chồng ông M, bà Ú cùng bà đến Văn phòng công chứng C làm hợp đồng vay tài sản, tổng số tiền 65.000.000 đồng, trên cơ sở số tiền vốn 50.000.000 đồng theo Tờ mượn tiền ngày 12-7-2016 (AL) và 15.000.000 đồng là tiền lãi chưa trả. Thời hạn vay là 02 (hai) tháng, lãi suất thỏa thuận 2%/tháng. Sau khi làm hợp đồng vay tiền, ông M, bà U không trả lãi, chưa trả vốn cho bà Tr mà đi khỏi địa phương đến nay không rõ tung tích.

Nay bà Lữ Tú Tr yêu cầu ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ú liên đới trả cho bà Tr tổng cộng là 65.000.000 đồng (trong đó vốn là 50.000.000 đồng và tiền lãi là 15.000.000 đồng) và yêu cầu tiếp tục tính lãi theo lãi suất quy định trên số tiền vốn 50.000.000 đồng tính từ ngày làm hợp đồng vay tài sản được công chứng, ngày 27-7-2019 đến ngày xét xử 16-7-2019.

Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ú không đến Tòa án, không có văn bản trình bày ý kiến.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát: Thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự (nguyên đơn) kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không chấp hành pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn ông Lê Văn M, bà Nguyễn Thị Ú, tuy đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn, bà Lữ Tú Tr đồng ý và yêu cầu Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn. Căn cứ Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu của nguyên đơn, bà Lữ Tú Tr: Yêu cầu ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ú liên đới trả cho bà Tr tổng cộng là 74.808.000 đồng (trong đó vốn 50.000.000 đồng, lãi thỏa thuận đến 27-7-2017 là 15.000.000 đồng, lãi của số tiền vốn 50.000.000 đồng tính từ ngày ký hợp đồng công chứng 27-7-2019 đến ngày xét xử 16-7-2019 theo mức lãi suất quy định là: 50.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 23 tháng 19 ngày = 9.808.000 đồng).

[3] Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Căn cứ Hợp đồng vay tài sản giữa bà Lữ Tú Tr với ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ú, được Văn phòng công chứng C chứng thực ngày 27-7-2017, có căn cứ xác định ông M, bà Ú có thỏa thuận vay của bà Tr số tiền 65.000.000 đồng, về thời hạn vay thể hiện trong hợp đồng là 02 (hai) tháng; lãi suất theo bà Tr trình bày là 2%/tháng. Tuy nhiên, từ khi vay đến nay, ông M, bà Ú không trả lãi và chưa trả vốn cho bà Tr và cố tình bỏ đi khỏi địa phương trốn tránh việc trả nợ. Bà Tr đã thực hiện thủ tục đăng tin tìm kiếm ông M, bà Ú về Tòa án để giải quyết khoản nợ trên, nhưng ông M, bà Ú không về. Do đó, căn cứ tài liệu, chứng cứ, lời trình bày của nguyên đơn bà Tr, thì ông M và bà Ú phải chịu trách nhiệm trả nợ theo yêu cầu của nguyên đơn.

[3.2] Bà Tr xác định: Hợp đồng vay tiền có công chứng ngày 27-7-2017 thể hiện số tiền 65.000.000 đồng, trong đó vốn 50.000.000 đồng giao theo giấy tay mượn tiền ngày 12-7-2016 (AL), còn 15.000.000 đồng là tiền lãi. Sự thừa nhận của bà Tr có lợi cho ông M, bà Ú, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.3] Điều 463 Bộ luật dân sự quy định: Hợp đồng vay tài sản:

“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”

Điều 466 Bộ luật dân sự quy định: Nghĩa vụ trả nợ của bên vay:

“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn... ”

Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn;...

5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”

Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Lãi suất

“1. Lãi suất do các bên tự thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác...

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

[3.4] Căn cứ quy định pháp luật trên, việc bà Tr yêu cầu ông M, bà Ú liên đới trả tiền vốn vay và lãi theo quy định của pháp luật từ thời điểm vay đến ngày xét xử tổng cộng 74.808.000 đồng, là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Đối với ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả tạm ứng án phí đã nộp cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39, các Điều 91, 92, 147, Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 288, 463, 466, 468, Khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

2. Buộc ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ú liên đới trả cho bà Lữ Tú Tr tổng số tiền 74.808.000 đồng (Bảy mươi bốn triệu tám trăm lẻ tám nghìn đồng).

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả của người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án với lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ú phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm 3.740.500 đồng.

Hoàn trả cho bà Lữ Tú Tr số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.625.000 đồng, theo biên lai số 12014 ngày 03-8-2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

5. Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn. Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Riêng bị đơn ông Lê Văn M và bà Nguyễn Thị Ú vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/DS-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:33/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về