Bản án 33/2019/DS-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 33/2019/DS-ST NGÀY 09/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

Ngày 09 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 76/2019/TLST-DS ngày 17-4-2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-DS ngày 17-6- 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần N (sau đây viết tắt là Ngân hàng Vietcombank); Địa chỉ: Số 198 đường Trần Quang K, quận H, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Chí L, sinh năm 1978 – Là Giám đốc chi nhánh Ngân hàng N; Địa chỉ: Số 03 đường T, Khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Theo Giấy ủy quyền số 395/UQ-VCB- PC ngày 09-8-2018 của Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Vietcombank. (vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Đào Thanh T, sinh năm 1992; Địa chỉ: Số 452/34 đường T, Khóm 2, Phường 5, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29-3-2019 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 07-8-2019 của nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 28-8-2017, ông Đào Thanh T đã ký kết Hợp đồng tín dụng áp dụng với cho vay tiêu dùng không tài sản bảo đảm đối với khách hàng cá nhân – trung hạn số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 để vay số tiền 10.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng cá nhân, lãi suất trong hạn là 10,5%/năm cố định 12 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên, sau thời gian áp dụng lãi suất cố định lãi suất cho vay sẽ được áp dụng thông báo của V chi nhánh Sóc Trăng, lãi suất quá hạn bằng 150% x lãi suất trong hạn, thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân vốn vay, phương thức trả nợ gốc theo bảng kế hoạch trả nợ ngày 28-8- 2017.

Trong quá trình vay kể từ ngày 28-8-2017 cho đến nay ông T trả nợ vốn được 3.732.198 đồng. Ông T đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi theo như thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng. Như vậy, ông T đã vi phạm các điều khoản đã ký trong hợp đồng tín dụng với Ngân hàng, mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nợ nhưng ông T vẫn không thanh toán cho Ngân hàng.

Nay Ngân hàng V yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc ông Đào Thanh T phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng toàn bộ số tiền tạm tính đến ngày 09-8-2019 là tiền nợ gốc là 6.267.802 đồng, lãi trong hạn là 856.822 đồng và lãi quá hạn là 172.671 đồng, tổng vốn gốc và lãi là 7.297.295 đồng cùng tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng tính từ ngày 10-8-2019 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng.

Trong quá trình giải quyết vụ án thì bị đơn là ông Đào Thanh T đều vắng mặt và không có ý kiến gì đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã xác đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ tranh chấp, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, việc thu thập chứng cứ cũng như gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Về nội dung do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng Vietcombank yêu cầu ông Đào Thanh T cư trú tại thành phố S, tỉnh Sóc Trăng thanh toán tiền nợ vay phát sinh từ Hợp đồng tín dụng áp dụng với cho vay tiêu dùng không tài sản bảo đảm đối với khách hàng cá nhân – trung hạn số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8-2017 (sau đây viết tắt là Hợp đồng tín dụng số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8-2017) nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng giải quyết theo quy định Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Trần Chí L có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn là ông Đào Thanh T đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách và không có người đại diện tham gia phiên tòa nên căn cứ vào điểm a, b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông L và ông T.

[3] Về nội dung:

Đối với bị đơn là ông Đào Thanh T sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành cấp, tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai cho ông T nhưng ông Tuấn không có kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có văn bản trả lời cho Tòa án, không đưa ra chứng cứ và không tham gia phiên họp nên căn cứ theo Khoản 2, Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng V đã cung cấp Hợp đồng tín dụng số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8-2017 và Giấy nhận nợ số 01 kèm theo hợp đồng có chữ ký và chữ viết của ông Đào Thanh T thể hiện là người vay tiền của ngân hàng, đây được xem là chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hợp pháp theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nên có đủ căn cứ xác định giữa ông T với Ngân hàng V thực tế có giao kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện, mục đích và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, về hình thức và nội dung của hợp đồng tại thời điểm xác lập phù hợp với quy định pháp luật và lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng là phù hợp Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành. Do đó, Hợp đồng tín dụng số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8-2017 có giá trị pháp lý, các đương sự đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi ký kết hợp đồng nên các bên phải thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng.

Theo nội dung Hợp đồng tín dụng số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8- 2017 thì Ngân hàng cho ông T vay số tiền là 10.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng cá nhân, lãi suất trong hạn là 10,5%/năm cố định 12 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên, sau thời gian áp dụng lãi suất cố định lãi suất cho vay sẽ được áp dụng thông báo của V chi nhánh Sóc Trăng, lãi suất quá hạn bằng 150% x lãi suất trong hạn, thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân vốn vay, phương thức trả nợ gốc theo bảng kế hoạch trả nợ ngày 28-8-2017. Thời hạn vay là 24 tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân vốn vay. Phương thức thanh toán chia làm 24 kỳ (mỗi kỳ là 01 tháng), trả nợ gốc theo Kế hoạch trả nợ kèm theo hợp đồng, trả lãi vào ngày 10 hàng tháng, ngày trả nợ đầu tiên vào ngày 10-10-2017, số tiền trả mỗi kỳ là 4000.000 đồng, kỳ cuối cùng trả số tiền 800.000 đồng. Trong quá trình vay kể từ ngày 28-8-2019 thì ông T chỉ trả cho Ngân hàng tiền vốn vay là 3.732.198 đồng, tiền lãi là 701.048 đồng, từ đó cho đến nay ông T không thực hiện nghĩa trả nợ theo như thỏa thuận trong hợp đồng nên đã vi phạm Điều 5; Điều 7 của Hợp đồng tín dụng số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8-2017. Do đó, Ngân hàng Vietcombank có quyền thu hồi nợ trước thời hạn theo quy định tại Khoản 1 Điều 95 của Luật Tổ chức Tín dụng năm 2010 và Điều 8 của Hợp đồng tín dụng số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8-2017.

Xét việc Ngân hàng V yêu cầu ông T phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng số tiền tính đến ngày 09-8-2019 là 7.279.295 đồng, trong đó, tiền nợ gốc là 6.267.802 đồng, lãi trong hạn là 856.822 đồng, lãi quá hạn là 172.671 đồng và tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận trong hợp đồng tính từ ngày 10-8-2019 cho đến khi thanh toán xong tất cả các khoản nợ là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại Điều 91 của Luật Tổ chức Tín dụng và Điều 11, điểm c Khoản 2 Điều 24, điểm d Khoản 1 Điều 25 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Từ những cơ sở trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng V là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng V được chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bị đơn ông T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 363.964 đồng.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 2, Khoản 4 Điều 91; Khoản 1 Điều 147; điểm a, b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1, Khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Căn cứ vào Điều 95 của Luật Tổ chức Tín dụng năm 2010.

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần N.

Buộc ông Đào Thanh T trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần N số tiền nợ là 7.279.295 đồng, trong đó, tiền nợ gốc là 6.267.802 đồng, lãi trong hạn là 856.822 đồng, lãi quá hạn là 172.671 đồng.

Kể từ ngày 10-8-2019, ông Đào Thanh T còn phải tiếp tục chịu tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 0389/17/HĐTD/ST/TN1 ngày 28-8-2017 cho đến khi thanh toán xong tất cả các khoản nợ. Trường hợp trong hợp đồng các bên có thỏa thuận về điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ thì lãi suất mà ông Đào Thanh T phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần N cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại Cổ phần N.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Đào Thanh T phải nộp là 363.964 đồng.

Hoàn trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần N số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007403 ngày 08-4-2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/DS-ST ngày 09/08/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng 

Số hiệu:33/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về