Bản án 33/2018/HS-ST ngày 31/08/2018 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 33/2018/HS-ST NGÀY 31/08/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 31 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Th, sinh ngày 02 tháng 10 năm 1981 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn NT, xã TH, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Lâm Thị N; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

2. Ngô Văn Đ, sinh ngày 09 tháng 4 năm 1991 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 4, xã TL, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn D và bà Bùi Thị Đ; chưa có vợ, con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

3. Nguyễn Minh Ch, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1986 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 3, xã VT, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hồng C và bà Nguyễn Thị R; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

4. Phạm Văn K, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1979 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn TĐ, xã AH, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ và bà Đoàn Thị Q; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

5. Nguyễn Xuân Tr, sinh ngày 08 tháng 01 năm 1988 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 3, xã VT, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hồng C và bà Nguyễn Thị R; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

6. Nguyễn Huy Đ, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1980 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn BT, xã HT, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Huy T và bà Vũ Thị R ; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

7. Phạm Văn Ng, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1993 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn AN, xã TL, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn D và bà Đào Thị M ; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

8. Nguyễn Bá Th, sinh ngày 04 tháng 02 năm 1991 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Khu dân cư ĐN, thị trấn VB, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá S và bà Nguyễn Thị T ; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

9. Nguyễn Văn T1, sinh ngày 04 tháng 8 năm 1993 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn D , xã GB, huyện VB, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Hoàng Thị N; có vợ và 01 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

10. Nguyễn Huy T2, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1977 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn BT, xã HT, huyện VB , thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Huy C và bà Nguyễn Thị T; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

11. Tống Phú H, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1967 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn NT, xã TH, huyện VB, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Phú C và bà Nguyễn Thị M; có vợ và 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13-02-2018 đến ngày 15-02-2018 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

Người làm chứng: Ông Lê Văn B; ông Vũ Xuân V; ông Nguyễn Văn K; ông Trịnh Khắc D; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 13 tháng 02 năm 2018, Công an huyện Vĩnh Bảo bắt quả tang tại kho cơ điện của của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐV ở khu phố TH, thị trấn VB, huyện VB , thành phố Hải Phòng một số đối tượng đang đánh bạc trái phép dưới hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền. Các đối tượng bị bắt giữ gồm: Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ, Nguyễn Minh Ch, Phạm Văn K, Nguyễn Huy T2, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1, Phạm Văn Ng, Tống Phú H cùng Lê Văn B sinh năm 1991 ở thôn ĐN, xã TH; Vũ Xuân V sinh năm 1995 ở thôn PT, xã HT; Nguyễn Văn K sinh năm 1974 ở thôn 4, xã TL và Trịnh Khắc D sinh năm 1982 ở xã CA, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Thu giữ tại chiếu bạc 01 chiếc bát sứ, 01 chiếc đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn, 01 mảnh vải và tổng số tiền là 18.360.000đ, đồng thời dẫn giải các đối tượng về trụ sở Công an huyện VB để đấu tranh làm rõ.

Căn cứ vào tài liệu điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện VB ra quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Th, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Minh Ch, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K, Phạm Văn Ng, Ngô Văn Đ, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H đều về tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 để điều tra xử lý.

Tại cơ quan điều tra các bị cáo Nguyễn Văn Th, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Minh Ch, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K, Phạm Văn Ng, Ngô Văn Đ, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H khai nhận: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 13 tháng 02 năm 2018, sau khi ăn cơm trưa xong, Th, Đ và Ch đều là công nhân của Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐV đi vào phòng cơ điện của công ty ngồi chơi, nghỉ ngơi. Một lúc sau Th , Đ và Ch tự phát rủ nhau đánh xóc đĩa được thua bằng tiền. Ch đã lấy 01 bát sứ, 01 đĩa bằng sứ và 04 quân vị hình tròn có sẵn ở dưới gầm tủ rồi đưa cho Th cầm cái, còn Đ và Ch đều là những người đặt tiền cược. Ít phút sau, T2, K, Đ, Th, T1, Ng, Tr, H, Lê Văn B , Vũ Xuân V , Nguyễn Văn K và Trịnh Khắc D cũng đều là công nhân của công ty đi vào đó để nghỉ ngơi. Thấy vậy, T2, K, Đồng, Thành, T1, Ng, Tr và H cùng vào tham gia đặt tiền cược. Riêng Lê Văn B , Vũ Xuân V , Nguyễn Văn K và Trịnh Khắc D không tham gia đánh bạc. Việc đánh bạc theo cách thức như sau: Mỗi ván chơi có hai cửa là chẵn và lẻ để cho những người chơi lựa chọn đặt tiền cược . Cụ thể: Th cho 04 quân vị vào trong bộ bát, đĩa xóc lên nhiều lần rồi đặt xuống cho những người chơi đặt tiền vào các cửa chẵn, lẻ tùy theo ý của mình với số tiền đặt cược thấp nhất từ 20.000đ trở lên nhưng không giới hạn mức cao nhất. Đến khi nào mở bát ra mà có 02 hoặc cả 04 quân vị cùng một màu thì là chẵn và người đặt tiền ở cửa này thắng, còn người đặt tiền ở cửa lẻ thua, nếu có 01 hoặc 03 quân vị có cùng màu thì là lẻ và người nào đặt tiền ở cửa này thắng, người đặt tiền ở cửa chẵn thua. Nếu người nào thắng trong ván đó thì được đúng số tiền mà mình đã đặt cược và ngược lại, người nào thua thì mất toàn bộ số tiền mà mình đã đặt. Khi đánh bạc, Th có 1.600.000 đồng sử dụng để đánh bạc nhưng không biết thắng hay thua thì bị bắt quả tang; Ch có 1.300.000 đồng sử dụng để đánh bạc nhưng không biết thắng hay thua thì bị bắt quả tang; Đ có 1.400.000 đồng sử dụng để đánh bạc, đánh thắng được 200.000 đồng; Tr có 1.000.000 đồng sử dụng để đánh bạc, đánh thua mất 600.000 đồng; K có 1.000.000 đồng sử dụng để đánh bạc, đánh thua mất 50.000 đồng; T2 có 100.000 đồng sử dụng để đánh bạc và đánh thua hết; Th có 200.000 đồng sử dụng để đánh bạc và đánh thua hết; Đồng có 250.000 đồng sử dụng để đánh bạc, đánh thua mất 50.000 đồng; T1 có 100.000 đồng sử dụng để đánh bạc và đánh thua hết. Ng có 3.000.000 đồng nhưng chỉ dùng 200.000 đồng để đánh bạc và đánh thua mất 100.000 đồng, còn lại 2.800.000 đồng không dùng để đánh bạc Ng đã tự nguyện nộp lại cho Công an huyện Vĩnh Bảo sau khi bị dẫn giải về trụ sở. Tống Phú H khai nhận: Khi đánh bạc, H có 60.000đ sử dụng để đánh bạc và đánh thua hết. Trong quá trình đánh bạc, không có ai thu tiền hồ hoặc tiền phí gì. Đến 12 giờ 40 phút cùng ngày thì bị Công an huyện VB bắt quả tang, thu giữ 01 chiếc bát sứ, 01 chiếc đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn, 01 mảnh vải và số tiền là 18.360.000đ trên chiếu bạc Bản cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 17 tháng 7 năm 2018, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo đã truy tố Nguyễn Văn Th, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Minh Ch, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K, Phạm Văn Ng , Ngô Văn Đ, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội khẳng định bản Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 17 tháng 7 năm 2018 truy tố Nguyễn Văn Th , Nguyễn Xuân Tr , Nguyễn Minh Ch , Nguyễn Huy Đ , Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K , Phạm Văn Ng , Ngô Văn Đ , Nguyễn Bá Th , Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ tính chất hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 17, Điều 58, điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo. Áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo Th , Đ, Ch. Áp dụng Điều 36 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo K, Tr, Đ, Ng , Th, T1, T2, H. Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo Th, K, Tr, Đ, Th, T2, H. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Th, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Minh Ch , Nguyễn Huy Đ , Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K , Phạm Văn Ng, Ngô Văn Đ, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H đồng phạm tội Đánh bạc và xử phạt các bị cáo:

Nguyễn Văn Th từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo Ngô Văn Đ từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo Nguyễn Minh Ch từ 06 đến 09 tháng tù nhung cho hưởng án treo Phạm Văn K từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ Nguyễn Xuân Tr từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ Nguyễn Huy Đ từ từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ Phạm Văn Ng từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ Nguyễn Bá Th từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ Nguyễn Văn T1 từ từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ Nguyễn Huy T2 từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ Tống Phú H từ từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ Về việc khấu trừ thu nhập: Miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo K, Tr, Đ, Ng, Th, T1, T2, H. Về hình phạt bổ sung: Phạt mỗi bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng sung quỹ nhà nước. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Đề nghị sung quỹ nhà nước số tiền các bị cáo đã sử dụng để đánh bạc là 18.360.000đ. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bát sứ, 01 đĩa bằng sứ, 01 chiếc chăn bằng vải, 04 quân vị hình tròn. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn Th , Nguyễn Xuân Tr , Nguyễn Minh Ch , Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K, Phạm Văn Ng, Ngô Văn Đ, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H đều khai nhận đã tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền tại kho cơ điện của Công ty TNHH ĐV, huộc khu phố TH, thị trấn VB, huyện VB , thành phố Hải Phòng. Th dùng 1.600.000đ để đánh bạc, Ch dùng 1.300.000đ để đánh bạc, Đ dùng 1.400.000đ để đánh bạc, Tr dùng 1.000.000đ để đánh bạc, K dùng 1.000.000đ để đánh bạc, Đ dùng 250.000đ để đánh bạc, Th dùng 200.000đ để đánh bạc, Ng dùng 200.000đ để đánh bạc, T1 dùng 100.000đ để đánh bạc, T2 dùng 100.000đ để đánh bạc, H dùng 60.000đ để đánh bạc. Quá trình bắt quả tang các bị cáo đều khẳng định cơ quan Công an đã thu giữ tại chiếu bạc 01 chiếc bát sứ, 01 chiếc đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn, 01 mảnh vải và số tiền là 18.360.000đ trên chiếu bạc.

Tại lời nói sau cùng, các bị cáo trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được cải tạo địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VB, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện VB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về nội dung:

[2] Về tội danh và hình phạt: Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Văn Th, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Minh Ch, Nguyễn Huy , Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K, Phạm Văn Ng, Ngô Văn Đ , Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H là hoàn toàn rõ ràng, phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ đã đủ cơ sở xác định: Vào ngày 13-02-2018, tại kho cơ điện của Công ty TNHH ĐV ở thị trấn VB, huyện VB, thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ, Nguyễn Minh Ch, Phạm Văn K, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Phạm Văn Ng, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H đã sử dụng 01 chiếc bát bằng sứ, 01 chiếc đĩa bằng sứ, 04 quân vị hình tròn và 01 mảnh vải để đánh bạc trái phép dưới hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền do Nguyễn Văn Th là người cầm cái, với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 18.360.000 đồng thì bị bắt quả tang. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều thừa nhận có chứng kiến việc đếm và thu giữ số tiền trên chiếu bạc với tổng số tiền là 18.360.000 đồng. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn Th, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Minh Ch, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Huy T2, Phạm Văn K, Phạm Văn Ng, Ngô Văn Đ, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1 và Tống Phú H đã dùng số tiền 18.360.000 đồng để đánh bạc, các bị cáo đã đồng phạm tội Đánh bạc, vi phạm khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

[4] Xét về vai trò của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định: Mặc dù vụ án có nhiều đồng phạm nhưng không có sự bàn bạc, phân công, cấu kết chặt chẽ giữa các đồng phạm nên đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng Nguyễn Văn Th là người giữ vai trò chính, là người cầm cái, sau đến Nguyễn Minh Ch là người chuẩn bị công cụ, Ngô Văn Đ. Tiếp đến Phạm Văn K, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Phạm Văn Ng, Nguyễn Bá Th và sau cùng là các bị cáo Nguyễn Văn T1, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H.

[6] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ, Nguyễn Minh Ch, Phạm Văn K, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Phạm Văn Ng, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H đều không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc Tr hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, đây là các tình tiết giảm nhẹ các bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Bị cáo Th có ông nội tham gia kháng chiến và được tặng thưởng huy chương. Bị cáo K , Th, Đ, T2 có bố đẻ là người có công với cách mạng, tham gia kháng chiến và được tặng thưởng huân chương. Bị cáo Tr, Đ, T2, H có thời gian tham gia quân đội nhân dân, bị cáo Đ được tặng Bằng khen trong quá trình tham gia quân đội nhân dân. Bị cáo H là người thờ cúng bác ruột là liệt sỹ trong gia đình. Đây là tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo Th, K, Tr, Đồng, Th, T2 , H được hưởng theo quy định khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Căn cứ tính chất hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo. Xét thấy, các bị cáo đều có thân nhân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, để đảm bảo mục đích của hình phạt là răn đe, phòng ngừa tội phạm, đồng thời tạo điều kiện để giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, cần áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015 đối với bị cáo Th, Đ, Ch, áp dụng Điều 36 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo K , Tr , Đ, Ng , Th, T1,T2 , H cho các bị cáo cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú.

[7] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 BLHS năm 2015, cần phạt mỗi bị cáo 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

[8] Về việc khấu trừ thu nhập: Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 BLHS năm 2015 các bị cáo K , Tr , Đ, Ng , Th, T1 , T2 , H phải bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo này đều phạm tội lần đầu, thu nhập thấp, không ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo K , Tr , Đ, Ng, Th, T1, T2 , H .

[9] Đối với Lê Văn B, Vũ Xuân V, Trịnh Khắc D, Nguyễn Văn K mặc dù có mặt tại nơi đánh bạc và có biết việc đánh bạc được diễn ra nhưng cả 04 người này đều không tham gia. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện VB không xử lý đối với họ là phù hợp.

[10] Đối với Công ty TNHH ĐV là nơi các đối tượng đánh bạc. Do khu vực kho cơ điện là nơi nghỉ dành riêng cho công nhân của công ty, khi sự việc diễn ra, quản lý của công ty không biết. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo không xử lý đối với công ty và người quản lý của công ty là phù hợp.

[12] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 chiếc bát bằng sứ, 01 chiếc đĩa bằng sứ, 01 miếng vải, 04 quân vị hình tròn. Xét thấy công cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc, không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại và khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Số tiền 18.360.000đ các bị cáo đã sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước.

[13] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ, Nguyễn Minh Ch, Phạm Văn K, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Phạm Văn Ng, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H mỗi người phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ, Nguyễn Minh Ch, Phạm Văn K, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Phạm Văn Ng, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H đồng phạm tội Đánh bạc.

2. Về hình phạt:

2.1 Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 65, Điều 58, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 với Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ, Nguyễn Minh Ch, áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với Nguyễn Văn Th , xử phạt:

- Nguyễn Văn Th 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách án treo là 18 (Mười tám) tháng. Thời hạn thử thách án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Ngô Văn Đ 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách án treo là 12 (Mười hai) tháng. Thời hạn thử thách án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Nguyễn Minh Ch 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách án treo là 12 (Mười hai) tháng. Thời hạn thử thách án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao Nguyễn Văn Th cho UBND xã TH, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Giao Ngô Văn Đ cho UBND xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục Giao Nguyễn Minh Ch cho UBND xã VT, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Trong trường hợp người được hưởng án treo, thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2.2 Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 58, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36, Điều 17 BLHS năm 2015 với Phạm Văn Ng, Nguyễn Văn T1, Phạm Văn K, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Bá Th Nguyễn Huy T2, Tống Phú H. Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với Phạm Văn K , Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H , xử phạt:

- Phạm Văn K 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho K 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. K còn phải chấp hành 11 (Mười một) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

- Nguyễn Xuân Tr 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho Tr 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. Tr còn phải chấp hành 11 (Mười một) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

- Nguyễn Huy Đ 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho Đ 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. Đ còn phải chấp hành 08 (Tám) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

- Phạm Văn Ng 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho Ng 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. Ng còn phải chấp hành 08 (Tám) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

- Nguyễn Bá Th 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho Th 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. Th còn phải chấp hành 08 (Tám) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

- Nguyễn Văn T1 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho T1 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. T1 còn phải chấp hành 08 (Tám) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

- Nguyễn Huy T2 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho T2 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. T2 còn phải chấp hành 05 (Năm) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

- Tống Phú H 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho H 03 ngày bị tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ. H còn phải chấp hành 05 (Năm) tháng 21 (Hai mốt) ngày cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục các bị cáo nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án.

Giao Phạm Văn K cho UBND xã AH, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Giao Nguyễn Xuân Tr cho UBND xã VT, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Giao Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Huy T2 cho UBND xã HT, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Giao Phạm Văn Ng cho UBND xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Giao Nguyễn Bá Th cho UBND thị trấn VB, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Giao Nguyễn Văn T1 cho UBND xã GB, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

Giao Tống Phú H cho UBND xã TH, huyện VB, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục.

2.3 Hình phạt bổ sung: Phạt các bị cáo Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ , Nguyễn Minh Ch, Phạm Văn K , Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ , Phạm Văn Ng , Nguyễn Bá Th , Nguyễn Văn T1, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H mỗi bị cáo 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 của BLTTHS năm 2015, khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015: Xử tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bát sứ, 01 chiếc đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn và 01 mảnh vải. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 18.360.000đ (Mười tám triệu, ba trăm sáu mươi nghìn đồng). Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử buộc các bị cáo Nguyễn Văn Th, Ngô Văn Đ, Nguyễn Minh Ch, Phạm Văn K, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Huy Đ, Phạm Văn Ng, Nguyễn Bá Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Huy T2, Tống Phú H mỗi người phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

377
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/HS-ST ngày 31/08/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:33/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về