Bản án 33/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 33/2018/HS-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 15 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnhBà Rịa Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2018, đối với bị cáo: Dương Cẩm N, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1994 tại: Cà Mau

Hộ khẩu thường trú: ấp A, xã B, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: tổ C, ấp D, xã E, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nữ; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn H (chết) và bà Liêu Thị V; có chồng là Phạm Văn G và 02 con, lớn sinh ngày: 07/12/2015 và nhỏ sinh ngày: 03/11/2016; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo được tại ngoại từ giai đoạn điều tra.

Người làm chứng:

- Phạm Văn G, sinh năm: 1982

Địa chỉ: Tổ X, ấp D, xã E, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Phạm Thị Vân L, sinh năm: 1986

Địa chỉ: Tổ X, ấp D, xã E, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút, bị cáo Dương Cẩm N đã thực hiện hành vi bán 01 gói ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,3778 gam cho đối tượng Nguyễn Văn Y (không rõ lai lịch) tại nhà của bị cáo thuộc tổ 7, ấp D, xã E, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, với giá 500.000đ. Khi bị cáo và Y đang tiến hành giao nhận thì bị Công an xã E, huyện Xuyên Mộc bắt quả tang. Qua khám xét, Công an còn thu giữ của bị cáo N 13 gói ma túy Methamphetamine, có khối lượng 5,9312 gam, bị cáo N cất giấu trong phòng ngủ để bán cho các con nghiện khác.

Căn cứ vào kết luận giám định số 06/GĐMT-PC54 ngày 05/01/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, xác định: 01 gói ma túy bị cáo bán cho Y có khối lượng 0,3778 gam và 13 gói ma túy thu giữ tại nơi ở của N có khối lượng 5,9312 gam; tất cả đều là ma túy loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu. Đồng thời, khẳng định toàn bộ số ma túy bị thu giữ là của bị cáo, bị cáo mua từ một người tên P ở thành phố Hồ Chí Minh (bị cáo không biết họ tên và địa chỉ của người này). Sau khi mua ma túy thì bị cáo đem về nhà chia nhỏ ra để bán cho các con nghiện, kiếm tiền lời tiêu xài cá nhân.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 02 (hai) phong bì đã được niêm phong có số thứ tự 01 và 02, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định;

- 01(một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu hồng, số IMEL353316079161223 bên trong có gắn sim số 01212477053;

- 01(một) kẹp bằng kim loại, màu trắng dài 20,4cm;

- 01(một) kéo bằng kim loại, dài 17,6cm;

- 01 (một) đoạn ống hút bằng nhựa, màu đem, dài 18cm;

- 20 (hai mươi) gói Nilon được hàn kín 03 cạnh, kích thước 4cm x 12cm.

- Số tiền 500.000đ ( năm trăm ngàn đồng)

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nêu trên. Kiểm sát viên cũng không có ý kiến gì về kết luận giám định nêu trên.

Đối với Nguyễn Văn Y là người mua ma túy của bị cáo để sử dụng nhưng sau đó bỏ trốn, kết quả xác minh theo địa chỉ mà đối tượng cung cấp khi bị bắt thì không có ai tên là Nguyễn Văn Y nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xử lý được đối với Y.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận: đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc trình bày ý kiến luận tội:

+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKS-XM ngày 17 tháng 5 năm 2018, đối với bị cáo Dương Cẩm N về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm2017, xử phạt bị cáo Dương Cẩm N từ 03 năm 06 tháng đến 4 năm tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bán ma túy để kiếm lời nhưng thu nhập không đáng kể, bản thân bị cáo đang nuôi 02 con dưới 36 tháng tuổi, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.

+ Về vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 02 phong bì đã được niêm phong có số thứ tự 01 và 02 bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định; sim điện thoại có số 01212477053;

01 kẹp bằng kim loại, màu trắng dài 20,4cm; 01 kéo bằng kim loại, dài 17,6cm; 01 đoạn ống hút bằng nhựa, màu đem, dài 18cm; 20 gói Nilon được hàn kín 03 cạnh, kích thước 4cm x 12cm.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ ( năm trăm ngàn đồng) mà bị cáoN bán ma túy cho Y.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu hồng, số IMEL 353316079161223.

Các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc theo biên bản giao nhận vật chứng số: 34/BB ngày 18/5/2018 chờ xử lý.

- Bị cáo thống nhất với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không tự bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi của bản thân là có tội và đồng ý với quyết định truy tố trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc. Tuy N, bị cáo kinh xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội tự cải tạo, hòa nhập với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Xuyên Mộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Cẩm N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc đã truy tố. Lờikhai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của người làm chứng, thể hiện: Để có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo đã bán 01 gói ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,3778 gam cho đối tượng tên Y với giá 500.000đ và cất giữ 13 gói ma túy có khối lượng 5,9312 gam để bán cho các con nghiện khác nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện. Như vậy, tổng khối lượng của 14 gói ma túy có trọng lượng là 6,309 gam.

Theo kết luận giám định số 06/GĐMT-PC54 ngày 05/01/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thì 01 gói ma túy bị cáo bán cho Y và13 gói ma túy thu giữ tại nơi ở của bị cáo đều có Methamphetamine là chất ma túynằm trong Danh mục II, STT 67 Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Trong đó, 01 gói ma túy là bị cáo bán cho Y có khối lượng là 0,3778 gam, 13 gói ma túy thu giữ tại nơi ở của N có khối lượng là 5,9312 gam.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bộ sung năm 2017. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận cáo trạng truy số 31/CT-VKS-XM ngày 17 tháng 5 năm 2018 của của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước và còn gây ra những tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm gia tăng tệ nạn nghiện hút, sử dụng ma túy trong cộng đồng, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm xã hội khác. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy đá, cũng như quy định của pháp luật là nghiêm cấm mọi hành vi mua bán trái phép các chất ma túy nhưng vì lợi ích của bản thân, bị cáo đi vào con đường phạm tội.

Để tăng cường biện pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy tại địa phương nói chung, cũng như để giáo dục riêng đối với bị cáo. Xét thấy, cần tuyên xử bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, đồng thời nhằm giáo dục phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo là người dân tộc Khmer nên nhận thức của bị cáo có phần hạn chế; bị cáo hiện đang nuôi hai con dưới 36 tháng tuổi nhưng bản thân bị cáo không có việc làm ổn định, kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để bị cáo thấy được tính nhân đạo của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: xét thấy, bị cáo đang nuôi hai con dưới 36 tháng tuổi, không có nghề nghiệp ổn định, gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

[7] Về l vật chứng vụ án:

- 02 (hai) phong bì đã được niêm phong có số thứ tự 01 và 02 bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định là chất nhà nước cấm lưu hành; 01 sim điện thoại có số 01212477053; 01 kẹp bằng kim loại, màu trắng dài 20,4cm; 01 kéo bằng kim loại, dài 17,6cm; 01 đoạn ống hút bằng nhựa, màu đem, dài 18cm; 20 gói Nilon được hàn kín 03 cạnh, kích thước 4cm x 12cm không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu hồng, số IMEL 353316079161223 là tài sản riêng của bị cáo, bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Số tiền 500.000đ thu giữ là tài sản do phạm tội mà có nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Cẩm N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bộ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Dương Cẩm N 05 ( năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

2. Về l vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì đã được niêm phong có số thứ tự 01 và 02 bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định; 01 kẹp bằng kim loại, màu trắng dài 20,4cm; 01 kéo bằng kim loại, dài 17,6cm; 01 đoạn ống hút bằng nhựa, màu đem, dài 18cm; 20 gói Nilon được hàn kín 03 cạnh, kích thước 4cm x 12cm và 01 sim điện thoại có số 01212477053. giữ .

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) đang tạm

- Tịch thu sung công quỹ 01 Điện thoại di động hiệu hiệu Iphone 6, màu hồng,số IMEL 353316079161223.(Toàn bộ số vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện XuyênMộc đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 34/BB ngày 18/5/2018).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Dương Cẩm N phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:33/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về