Bản án 33/2017/HSST ngày 30/06/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2017/HSST NGÀY 30/06/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã B, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2017/HSST ngày 31/5/2017, đối với bị cáo:

Lê Văn H, sinh năm 1995; sinh trú quán: Thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; con ông Lê Văn H1 và bà Nguyễn Thị C; tiền sự, tiền án: không.

Bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Kinh Môn từ ngày 07/3/2017 đến ngày 09/3/2017, bị tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 09/3/2017 đến nay; có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sáng ngày 07/3/2017, Lê Văn H đi xe ô tô khách đến thành phố Hải Phòng chơi. Khoảng 10 giờ cùng ngày, trong khi đứng chờ xe khách ở khu vực Quán Toan thuộc thành phố Hải Phòng để đi về nhà, bị cáo H gặp và mua của một người đàn ông không rõ tên và địa chỉ 01 túi nilon bên trong đựng ma túy đá với giá 500.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau đó, bị cáo H đi xe ô tô khách về nhà chia số ma túy trên thành 02 phần, cho vào 02 túi nilon rồi bị cáo H cho cả hai túi nilon đựng ma túy vào trong 01 chiếc lọ nhựa. Hồi 13 giờ cùng ngày, tại nhà ở của bị cáo H ở thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Hải Dương, tổ công tác của công an huyện Kinh Môn kết hợp với công an xã D kiểm tra, thu giữ trên tay trái của bị cáo H một lọ nhựa bên trong có 02 túi nilon đều chứa các chất dạng tinh thể (được niêm phong ký hiệu M1), bị cáo H khai nhận đó là ma tuý đá do bị cáo H mua về để sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số: 1177/C54 (TT2) ngày 20/3/2017, Viện khoa học hình sự-Tổng cục cảnh sát, kết luận: Chất dạng tinh thể trong 02 túi nilon trong phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định có tổng trọng lượng 2,272 gam, đều có Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 1,801 gam mẫu có Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu sau giám định được niêm phong số: 1177/C54 (TT2).

Tại bản cáo trạng số: 35/VKS-HS ngày 30/5/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Lê Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Ngày 14/6/2017, Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung, để giám định hàm lượng Methamphetamine có trong mẫu vật M1. Tại bản kết luận giám định số: 244/C54 (TT2) ngày 29/6/2017, Viện khoa học hình sự-Tổng cục cảnh sát-Bộ Công an, kết luận: Hàm lượng Methamphetamine có trong mẫu M1 là 72,5%. Hoàn lại mẫu vật sau giám định cùng vỏ bao gói mẫu, được niêm phong số: 244/C54 (TT2).

Tại phiên toà, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Điểm a, b khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội. Khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 07/3/2017. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố Tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong số: 244/C54 (TT2) của Viện khoa học kỹ thuật hình sự - Tổng cục cảnh sát - Bộ Công an, bên trong có mẫu vật Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu, được hoàn lại sau giám định. Tịch thu cho tiêu hủy 01 lọ nhựa màu hồng. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lê Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo Lê Văn H khai nhận tội như đã khai nhận tại cơ quan điều tra là:

Hồi 13 giờ ngày 07/3/2017, tại nhà ở của Lê Văn H ở thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Hải Dương, bị cáo H có hành vi cất giấu trái phép trên tay trái 01 lọ nhựa bên trong có 02 túi nilon chứa 2,272 gam chất dạng tinh thể, có hàm lượng Methamphetamine là 72,5% với mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác của Công an huyện Kinh Môn kết hợp với Công an xã D bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ. Methamphetamine là một loại chất ma túy. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự 1999. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực nhưng có quy định hình phạt nhẹ hơn đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Để thực hiện những quy định có lợi cho người phạm tội, nên Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng để quyết định hình phạt đối với bị cáo, theo quy định tại điểm a, b khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, còn là nguyên nhân làm lan truyền tệ nạn ma tuý và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được chất ma tuý rất độc hại, bị cấm lưu hành, tàng trữ trái phép nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt tù, buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khaibáo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p  khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, nên Toà án giảm nhẹ một phần về hình phạt cho bị cáo.

Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an huyện Kinh Môn thu giữ chất dạng tinh thể có Methamphetamine do bị cáo Lê Văn H tàng trữ trái phép và gửi đi giám định. Sau khi giám định, Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát - Bộ Công an hoàn lại mẫu vật sau giám định và vỏ bao gói mẫu. Methamphetamine là một loại chất ma túy bị Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy. Đối với 01 lọ nhựa của bị cáo H dùng để chứa chất ma túy, không có giá trị nên tịch thu cho tiêu hủy.

Trong vụ án này, đối với đối tượng bán chất ma tuý cho Lê Văn H, tài liệu điều tra không xác định được là ai, ở đâu. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kinh Môn không đủ căn cứ để xử lý nên Tòa án không xét.

Ngày 07/3/2017, Lê Văn K, sinh năm 1988 và Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1994, đều trú quán: xã D, huyện K, tỉnh Hải Dương đến nhà Lê Văn H chơi. Sau đó, khi bị cáo H đi chợ không có nhà, Lê Văn K có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho Nguyễn Mạnh C, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kinh Môn đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với Lê Văn K về tội Mua bán trái phép chất ma tuý để tiến hành điều tra trong vụ án khác theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bị cáo bị kết luận phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Điểm a, b khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số: 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội. Khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

3. Xử phạt bị cáo Lê Văn H 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 07/3/2017.

4. Về vật chứng:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố Tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong số: 244/C54 (TT2) của Viện khoa học kỹ thuật hình sự - Tổng cục cảnh sát - Bộ Công an, bên trong có mẫu vật Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu, được hoàn lại sau giám định.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 lọ nhựa màu hồng.

5 Về án phí: 

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lê Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2017/HSST ngày 30/06/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về