Bản án 33/2017/HNGĐ-ST ngày 28/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 33/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 80/2017/TLST - HNGĐ ngày 13/3/2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2017/QĐXX- ST ngày 14 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị L, sinh năm 1989. Có mặt

Nơi cư trú: Xóm BN, xã QC, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1983. Vắng mặt

Nơi cư trú: Xóm 1, xã NS, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

3. Người giám hộ cho anh Nguyễn Đình H:

Ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị H (Bố mẹ đẻ của anh Nguyễn Đình H).

 Đều trú tại : Xóm 1, xã NS, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/3/2017, bản tự khai cũng như quá trình tố tụng tại phiên tòa nguyên đơn chị Đinh Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đinh Thị L kết hôn với anh Nguyễn Đình H trên cơ sở tự nguyện và có tổ chức đăng ký kết hôn tại UBND xã QC, huyện QL, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/9/2012. Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống với nhau bình thường. Đến ngày 17/01/2014 trong lúc xây nhà ở riêng thì anh H bị tai nạn do ngã từ trên nhà xuống và bị chấn thương sọ não phải đi điều trị tại bệnh viện dài ngày. Sau khi điều trị cho đến nay anh H bị bại liệt nằm một chỗ không đi lại được, không nói được, không có khả năng nhận thức được hành vi của mình. Khi anh H bị tai nạn đi điều trị tại bệnh viện chị có đi chăm sóc chồng. Sau khi anh H về nhà thì giữa chị và bố mẹ chồng có mâu thuẩn với nhau nên bố mẹ chồng đuổi chị về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 12 năm 2014 cho đến nay. Trong thời gian ly thân bên gia đình chồng không quan tâm gì tới hai mẹ con chị. Xét thấy hiện nay mâu thuẫn giữa hai gia đình đã trở nên trầm trọng không thể quay lại được, chị cũng không còn tình cảm với anh H nữa nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết để chị được ly hôn với anh Nguyễn Đình H.

Về con chung: Trong thời gian chung sống với nhau chị Đinh Thị L và anh Nguyễn Đình H có với nhau có một người con chung tên là Nguyễn Vũ O, sinh ngày 17/7/2013. Ly hôn chị có nguyện vọng xin được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị.

Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Đình H: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã trực tiếp lên tại nhà anh H để xác minh tình trạng sức khỏe hiện nay của anh H, qua xác minh thì thấy hiện tại do anh H bị tai nạn chấn thương sọ não nằm một chỗ, không thể đi lại được, không nói được nên không có lời khai của anh Nguyễn Đình H.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/4/2017 và ngày 08/9/2017 đối với ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị H là bố mẹ đẻ của anh H được ông H và bà H cho biết: Anh H và chị L kết hôn với nhau vào ngày 24/9/2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã QC, huyện QL, tỉnh Nghệ An trên cơ sở tự nguyện. Vào năm 2014 do khi làm nhà anh H bị tai nạn ngã từ trên nhà xuống bị chấn thương sọ não nên chị L bỏ về nhà ngoại sinh sống chứ vợ chồng anh H và chị L không có mâu thuẫn gì, ông H, bà H cũng không đuổi chị L như chị L trình bày. Nay chị L làm đơn xin ly hôn thì ý kiến của ông H, bà H là việc ly hôn là việc của con, ông H, bà H không đứng ra để giải quyết thay cho con. Ông H, bà H cũng từ chối làm người giám hộ cho anh H, ông bà chỉ có nguyện vọng xin được nuôi cháu là Nguyễn Vũ O, sinh ngày 17/7/2013 là con của anh H với chị L và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Tại biên bản xác minh ngày 25/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu được ông Tô Văn Đ cán bộ Tư pháp xã NS cho biết: Chị Đinh Thị L và anh

Nguyễn Đình H là vợ chồng. Năm 2014 anh H bị tai nạn dẫn đến chấn thương sọ não, bị liệt, không nhận thức được, không nói được. Sau khi điều trị về một thời gian thì chị L và gia đình bố mẹ anh H phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể là gì thì UBND xã NS không biết được do chị L không làm đơn ra UBND xã để hòa giải. Chị L và anh H đã sống ly thân từ lâu.

Đại diện VKS phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký đã thực hiện đúng các trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn do bị tai nạn không nói được, không đi lại được nên không thể tham gia tố tụng tại Tòa án được. Người giám hộ cho anh H là ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị H mặc dù đã được Tòa án triệu tập để tham gia tố tụng nhưng ông H, bà H từ chối không chấp hành pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án:

Áp dụng khoản 1 Điều 51; các Điều 56, 81,82,83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đinh Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Đình H.

Về quan hệ con cái: Giao con chung là Nguyễn Vũ O, sinh ngày 17/7/2013 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục; Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh H vì chị L không yêu cầu.

Anh H có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không được ai cản trở.

Về quan hệ tài sản: Chị L không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

Về án phí: Chị Đinh Thị L phải nộp tiền án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Đình H là bị đơn do bị tai nạn nên bị liệt, không nói được, không đi lại được, không nhận thức được hành vi của mình. Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu đã giải thích để chị Đinh Thị L làm đơn yêu cầu tuyên bố anh Nguyễn Đình H mất năng lực hành vi dân sự. Sau khi được Tòa án giải thích, chị L làm đơn không yêu cầu tuyên bố anh H mất năng lực hành vi dân sự vì chị cho rằng chị và anh H ly thân đã lâu, việc chị yêu cầu Tòa án tuyên bố anh H mất năng lực hành vi dân sự là rất khó khăn, chị không thể đưa anh H đi giám định được, chị đề nghị Tòa án giải quyết vụ án của chị theo thủ tục chung theo quy định của Pháp luật. Tòa án đã trực tiếp chỉ định ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị H là bố mẹ đẻ của anh H làm người giám hộ đương nhiên cho anh H để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng ông H, bà H từ chối không tham gia mặc dù Tòa án đã triệu tập nhiều lần. Phiên Tòa lần thứ nhất triệu tập hợp lệ nhưng ông H, bà H vắng mặt. Phiên Tòa lần thứ hai triệu tập hợp lệ nhưng ông H và bà H vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

 [2]. Về hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị Đinh Thị L và anh Nguyễn Đình H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị L trình bày, từ khi anh H bị tai nạn đi điều trị tại bệnh viện chị có đi chăm sóc chồng, sau khi anh H đi điều trị tại bệnh viện về nhà thì giữa chị và bố mẹ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông Nguyễn Đình H là bố đẻ anh H nghi ngờ chị nhận các khoản tiền ủng hộ từ các nhà hảo tâm giúp đỡ cho anh H mà không đưa nên bố chồng chị đã đuổi hai mẹ con chị về bên ngoại sinh sống từ tháng 12 năm 2014 cho đến nay và không quan tâm gì tới hai mẹ con chị.

Theo ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị H là bố mẹ đẻ anh H trình bày thì tình cảm giữa anh H và chị L không có mâu thuẩn gì, nguyên nhân chị L xin ly hôn với anh H là do anh H bị tai nạn chứ ông H, bà H không đuổi chị L như chị L trình bày. Tuy lời trình bày của chị L, ông H và bà H là khác nhau nhưng Hội đồng xét xử xét thấy chị L và anh H đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2014 cho đến nay điều này cũng phùy hợp với lời khai của ông H và bà H là chị L đã về nhà mẹ đẻ sinh sống từ tháng 12/2014 cho đến nay. Nay chị L cho rằng chị không còn tình cảm với anh H nữa và hai gia đình đã mâu thuẫn trầm trọng nên chị không thể quay lại chung sống với anh H được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị xin ly hôn với anh Nguyễn Đình H. Do đó cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình xử cho chị Đinh Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Đình H.

 [3]. Về con chung: Chị Đinh Thị L và anh Nguyễn Đình H có một người con chung là Nguyễn Vũ O, sinh ngày 17/7/2013. Hiện nay anh H bị tai nạn không nói được, không tự đi lại được nên không có khả năng nuôi con. Bố mẹ anh H là ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị H có nguyện vọng xin được nuôi cháu O và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên từ khi sống ly thân đến nay cháu O ở với mẹ, cháu O mới được 4 tuổi cần nhiều hơn sự chăm sóc của người mẹ, cháu O đang sống với mẹ và phát triển bình thường. Vì vậy, cần áp dụng điều 81 Luật HNGĐ giao con chung là Nguyễn Vũ O cho chị Đinh Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên miễn xét.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[4]. Về quan hệ tài sản: Chị Đinh Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Đinh Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81,82,83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đinh Thị L và anh Nguyễn Đình H.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Vũ O, sinh ngày 17/7/2013 cho chị Đinh Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh H vì chị L không yêu cầu. Anh Nguyễn Đình H có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không được ai cản trở.

3. Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

4. Về án phí: Chị Đinh Thị L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp tại chị cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu theo biên lai thu tiền số 0003227 ngày 09/3/2017.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2017/HNGĐ-ST ngày 28/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:33/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về