Bản án 329/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 329/2020/DS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 244/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 77/2020/QĐST-DS ngày 23 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Liểu Thị H1, sinh năm 1961 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Chị Trần Thị Mỹ H2, sinh năm 1983 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 28/8/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Liểu Thị H1 trình bày:

Ngày 27/3/2018, chị H2 vay của bà 10.000.000 đồng để giải quyết việc gia đình, thời hạn vay là 03 tháng, giao dịch có làm giấy tay do chị H2 viết và ký tên nhận nợ, thỏa thuận miệng lãi suất 8%/tháng. Quá trình thực hiện chị H2 có trả được 02 tháng lãi đầu với số tiền là 1.600.000 đồng, đến tháng thứ 3 chị H2 không trả lãi và vốn; chị H2 năn nĩ cần tiền để trị bệnh cho cha và xin vay thêm 5.000.000 đồng. Vì là chỗ hàng xóm láng giềng nên ngày 27/6/2018 bà tiếp tục cho chị H2 vay thêm 5.000.000 đồng, thời hạn vay cũng là 03 tháng, cũng thỏa thuận miệng lãi suất 8%/tháng. Lần này chị H2 tiếp tục viết và ký tên nhận nợ vào bên dưới giấy tay nhận nợ ngày 27/3/2018 với số nợ tổng cộng của hai lần vay là 15.000.000 đồng, có chị Võ Thị Loan chứng kiến. Sau đó thì chị H2 không trả lãi cũng không trả vốn. Bà đã đòi nhiều lần nhưng chị H2 chỉ hứa hẹn kéo dài.

Nay bà yêu cầu chị H2 có nghĩa vụ trả cho bà số tiền còn nợ gốc 15.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi; trả một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra không còn yêu cầu gì khác.

* Bị đơn chị Trần Thị Mỹ H2 đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng chị H2 vẫn vắng mặt không lý do, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên không kiến nghị gì về tố tụng.

Về nội dung: Chị Trần Thị Mỹ H2 đã được tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp nhưng chị H2 không tham gia tố tụng, không thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn chị Trần Thị Mỹ H2 có nơi cư trú tại ấp B, xã B, huyện G nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Bà Liểu Thị H1 có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; chị Trần Thị Mỹ H2 đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do .

Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà H1, chị Kiều.

[3] Về nội dung:

Xét yêu cầu của bà Liểu Thị H1 đòi chị Trần Thị Mỹ H2 trả tiền vốn gốc còn nợ, Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị H2 vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên tại giấy viết tay nhận nợ (BL: 20) nguyên đơn cung cấp cho Tòa án có chữ ký của chị H2 nội dung thể hiện chị H2 còn nợ bà H1 số tiền vốn gốc như phía bà H1 trình bày. Khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do vậy, việc chị H2 có vay tiền của bà H1 và còn nợ số tiền vốn gốc 15.000.000 đồng là có thật.

Bà H1 và chị H2 là người có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật, tham gia giao dịch với ý chí tự nguyện nên hợp đồng vay tài sản giữa bà H1 và chị H2 là có hiệu lực pháp luật. Quá trình thực hiện hợp đồng, chị H2 không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả lãi và không trả vốn là đã vi phạm sự thỏa thuận giữa hai bên. Tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự quy định: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; …”. Do vậy, bà H1 có quyền yêu cầu chị H2 có nghĩa vụ trả lại số tiền đã cho vay để bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, Hội đồng xét xử buộc chị H2 có nghĩa vụ trả tiền theo yêu cầu của bà H1 là phù hợp với Điều 466 Bộ luật dân sự.

[4] Về tiền lãi: Bà Liểu Thị H1 và chị Trần Thị Mỹ H2 không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của bà Liểu Thị H1 được chấp nhận toàn bộ nên chị Trần Thị Mỹ H2 phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Quan điểm của của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 463, 466 Bộ luật dân sự; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Liểu Thị H1.

Buộc chị Trần Thị Mỹ H2 có nghĩa vụ trả cho bà Liểu Thị H1 số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

2. Về án phí:

Chị Trần Thị Mỹ H2 phải nộp 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho bà Liểu Thị H1 số tiền tạm ứng án phí 375.000 đồng (ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0016797 ngày 07 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây.

3. Về nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) và kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án hoặc niêm yết công khai bản án, bà Liểu Thị H1 và chị Trần Thị Mỹ H2 được quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 329/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:329/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về